Ngày 19 tháng 2 âm lịch
là ngày Quán Thế Âm đản sinh.
Ngày 19 tháng 6 âm lịch
là ngày Quán Thế Âm thành đạo.
Ngày 19 tháng 9 âm lịch
là ngày Quán Thế Âm xuất gia.
Cảnh tỉnh về NGƯỜI tu tập NIỆM PHẬT
TIÊU TAI CÁT TƯỜNG cho đến thành PHẬT đều do “NHẪN” LỰC mà thành tựu
(Thông thường người đời chỉ TIN NHÂN QUẢ THẾ GIAN mà thôi, còn NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN thì không đủ NHẪN LỰC , để TIN ĐƯỢC NGUYỆN LỰC CỦA CHƯ PHẬT, CHƯ BỒ TÁT…)
BỘ NHẬN 刃 Gồm có BỘ ĐAO 刀 cộng với một NÉT CHẤM BÊN TRÁI 丶 Là “NHẪN” LỰC khi bị con DAO đâm vào trái TIM, hình ảnh 忍 NHẪN tượng trưng cho TÂM 心 Ý Ðược NHU HÒA và NHẪN NẠI Các Chướng Duyên.
“NHẪN” LỰC là Tùy cảnh để Cứu đời, hoặc Mặc (im lặng không nói) thời thuyết, hoặc thuyết thời mặc, hoặc thị hoặc phi, hoặc Nghịch hành thuận hành ..., trên tinh thần Đạo Đức CHUNG, lại phải cùng sống hòa hợp, cùng trao đổi KIẾN THỨC để bổ khuyết cho nhau..., hoặc trì Chú, tụng Kinh, tham Thiền…Đây là PHƯƠNG TIỆN "NHẪN" LỰC làm cứu cánh.
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:
"BỒ ĐỀ TÂM” làm NHÂN, “ĐẠI BI” làm căn bản, “PHƯƠNG TIỆN” làm cứu cánh. Nếu quên mất "BỒ ĐỀ TÂM” mà tu các pháp lành, đó là “NGHIỆP MA”.
"BỒ ĐỀ TÂM” làm NHÂN, do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.
“ĐẠI BI TÂM” làm căn bản, do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.
Đây là “LÝ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI”.
“PHƯƠNG TIỆN” làm cứu cánh, do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.
Đây là “SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI”. Như trì Chú, tụng Kinh, tham Thiền…hoặc làm tất cả việc Thiện thế gian hay Xuất thế gian cho đến thành PHẬT, đều do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.
Đây là “LÝ SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI” cho đến “SỰ SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI”.
Mặc (im lặng không nói) thời thuyết, thuyết thời mặc,
Ðại thí môn khai vô ủng tắc.
Hữu nhân vấn ngã giải hà tông?
Báo đạo ma-ha bát-nhã lực. (TỨ VÔ NGẠI BIỆN TÀI)
Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức,
Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc.
(Vĩnh Gia Chứng Ðạo Ca)
The Dharani Sutra
THE SUTRA OF
THE VAST, GREAT, PERFECT, FULL, UNIMPEDED,
GREAT COMPASSION HEART DHARANI
OF THE
THOUSAND-HANDED, THOUSAND-EYED
BODHISATTVA WHO REGARDS THE WORLD’S SOUNDS
with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
TABLE OF CONTENTS
PART ONE:
THE SUTRA
THE VAST, GREAT, PERFECT, FULL, UNIMPEDED,
GREAT COMPASSION HEART DHARANI
THOUSAND-HANDED, THOUSAND-EYED
BODHISATTVA WHO REGARDS THE WORLD’S SOUNDS
http://www.dharmasite.net/daibidalani1.htm
THE SUTRA OF GREAT COMPASSION HEART DHARANI Commentary
Great Compassion Dharani Sutra Translated into English by Silfong Tsun
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN
PART TWO :
THE MANTRA
with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
ĐẠI BI CHÚ
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
1. The As-You-Will Pearl Hand and Eye
MARA MARA (MA RA MA RA)
25. MA RA MA RA
2. The Lariat Hand and Eye
PRANILA (BỜ RA NI LA)
62. MA RA NA RA
3. The Jeweled Bowl Hand and Eye
HULU HULU SHRI ( HU LU HU LU SÍ RI)
42. HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ LỴ
4. The Jeweled Sword Hand and Eye
TRISA RANA (TRI SA RA NA)
50. ÐỊA RỊ SẮC NI NA
5. The Vajra Hand and Eye
CHAKRA ASTAYA (SẮT KỜ RA, A SÍT TA DA)
68. GIẢ KIẾT RA A TẤT ÐÀ DẠ
6. The Vajra Pestle Hand and Eye
SARA SARA (SA RA SA RA)
43. TA RA TA RA
7. The Bestowing Fearlessness Hand and Eye
NILAKANTÉ PANTALAYA (NI LA KANH TÊ BANH TA LA DA)
72. NA RA CẨN TRÌ BÀN ÐÀ RA DẠ
8. The Sun Essence Mani Hand and Eye
SHVARAYA (SOA VA RA DA)
32. THẤT PHẬT RA DA
9. The Moon Essence Mani Hand and Eye
DHURU DHURU (ĐU RU ĐU RU)
28. ÐỘ LÔ ÐỘ LÔ
10. The Jeweled Bow Hand and Eye
BASHÁ BHASNIN (BA SA PHA SÍ NIN)
39. PHẠT SA PHẠT SÂM
11. The Jeweled arrow Hand and Eye
BHAYA MANE (PHA DA MA NÊ)
51. BA DẠ MA NA
12. The Willow Branch Hand and Eye
MUDHILI (MUÝT ĐI LI)
35. MỤC ÐẾ LỆ
13. The White Whisk Hand and Eye
MÀMÀ (MẠ MẠ)
34. MẠ MẠ
14. The hu Bottle Hand and Eye
NILAKANSTA (NI LA KANH SÍ TA)
49. NA RA CẨN TRÌ
15. The Shield Hand and Eye
BHASHIYATI (PHA SI DA TI)
28. PHẠT XÀ DA ÐẾ
16. The Ax Hand and Eye
SHRISINHAMUKHAYA (SÍT RI SIN HA MUÝT KHA DA)
64. TẤT RA TĂNG A MỤC KHÊ DA
17. The Jade Ring Hand and Eye
HULU HULU PRA (HU LU HU LU BỜ RA)
41. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA
18. The White Lotus Hand and Eye
GHAMAIN (GÀ MĂN)
27. KIẾT MÔNG
19. The Blue Lotus Hand and Eye
RIDHAYU (RÍT ĐÀ DU)
26. RỊ ÐÀ DỰNG
20. The Jeweled Mirror Hand and Eye
SHINA SHINA (SI NA SI NA)
37. THẤT NA THẤT NA
21. The Purple Lotus Hand and Eye
BHARASHÁYA (PHA RA SÁ DA)
40. PHẬT RA XÁ DA
22. The Jewel-chest Hand and Eye
SITAYAYE (SI TA DA DÊ)
SHVARAYA (SOA VA RA DA)
57. TẤT ÐÀ DU NGHỆ
58. THẤT BÀN RA DẠ
23. The Five-colored Cloud Hand and Eye
MASHI MASHI (MA SI MA SI)
26. MA HÊ MA HÊ
24. The Kundi Hand and Eye
DHARA DHARA (ĐA RA ĐA RA)
30. ÐÀ RA ÐÀ RA
25. The Red Lotus Hand and Eye
PADMAKÉSTAYA (PÁT ĐƠ MẠ KÊ SÍT TA DA)
70. BÀ ÐÀ MA YẾT TẤT ÐÀ DẠ
26. The Jeweled Halberd Hand and Eye
MAHA BHASHIYATI (MA HA PHA SI DA TI)
29. MA HA PHẠT XÀ DA ÐẾ
27. The Jeweled Conch Hand and Eye
GURU GURU (GU RU GU RU)
27. CU-LÔ CU-LÔ
28. The Skull Bone Staff Hand and Eye
EHY EHY (Ê HY Ê HY)
36. Y HÊ DI HÊ
29. The Recitation Beads Hand and Eye
BALASHÁRI (BA LA SÁ RI)
38. PHẬT RA XÁ-LỢI
30. The Jeweled Bell Hand and Eye
JÁLA JÁLA (JÁ LA JÁ LA)
33. DÁ RA DÁ RA
31. The Jeweled Seal Hand and Eye
SABHO SABHO (SA PHÔ SA PHÔ)
24. TÁT BÀ TÁT BÀ
32. The Corpse Iron Hook Hand and Eye
DHIRINI (ĐI RI NI)
31. ÐỊA RỊ NI
33. The Pewter Staff Hand and Eye
MAITRIYÉ (MÉT TRI DÊ)
48. DI ÐẾ RỊ DẠ
34. The Joined Palms Hand and Eye
SIRI SIRI (SI RI SI RI)
44. TẤT RỊ TẤT RỊ
35. The Transformation Buddha on the Palm Hand and Eye
ALASHIN (A LA SIN)
38. A RA SÂM
36. The Transformation Palace Hand and Eye
BHÀMARA (PHẠ MA RA)
34. PHẠT MA RA
37. The Jeweled Sutra Hand and Eye
SITAYA. (SI TA DA.)
SVAHA. (SÓA HA.)
MAHA SITAYA. (MA HA SI TA DA.)
SVAHA. (SÓA HA.)
53. TẤT ÐÀ DẠ
54. TA BÀ HA
55. MA HA TẤT ÐÀ DẠ
56. TA BÀ HA
38. The Non-retreating Gold Wheel Hand and Eye
BUDDHÀYA (BUÝT ĐÀ DA)
46. BỒ-ÐỀ DẠ
39. The Transformation Buddha Atop the Crown Hand and Eye
BUDHÀYA (BỒ ĐÀ DA)
47. BỒ-ÐÀ DẠ
40. The Grape Hand and Eye
ASTAYA (A SÍT TA DA)
66. A TẤT ÐÀ DẠ
41. The Sweet Dew Hand and Eye
SURU SURU (SU RU SU RU)
45. TÔ RÔ TÔ RÔ
42. The Uniting and Holding Thousand Arms Hand and Eye
MOPHOLISHAN KARAYA (MÔ PHÔ LI SĂN, KA RA DA)
74. MA BÀ LỴ THẮNG YẾT RA DẠ
PART THREE :
MANTRA ILLUSTRATIONS
MANTRA ILLUSTRATIONS
Thần Chú Xuất-Tượng
11-20 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES
21-30 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES
31-40 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES
41-50 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES
51-60 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES
61-70 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES
71-84 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES
八十四相大悲咒
84 The Great Compassion Mantra Illustrations
XUẤT TƯỢNG
PART FOUR :
THE FORTY-TWO HANDS
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Bút giả (Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm) vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.
Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề. Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.
Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
LỜI BÀN:
Thông thường người tụng kinh đều tìm kiến giải, rồi theo kiến giải mà thực hành, như theo Hòa Thượng thì quên hết mọi điều kiến giải, đọc từ đầu đến cuối, thì mới hợp với “CHƠN TÂM BỔN TÁNH”.
Ðể kết luận, cần nhấn rõ thêm là những điều nói trên tuyệt không có ý bài bác Thiền, Mật. Thiền và Mật là hai pháp môn cao siêu, và thật ra Thiền, Mật, Tịnh cả ba đều có đặc điểm riêng, cần tu học để hỗ trợ cho nhau. Chẳng hạn như khi trì chú theo của chân ngôn, Phật hiệu huân sâu vào tạng thức, kích động cho phiền não nổi dậy, phương pháp làm lắng động hữu hiệu nhứt không chi hơn Thiền. Trong lúc tham thiền hoặc niệm Phật, ma chướng trong ngoài khuấy rối, cách hàng phục kiến hiệu mau lẹ nhứt, không chi hơn Mật. Và muốn giải quyết việc lớn là sống chết luân hồi một cách thẳng tắt chắc chắn nhứt, lại không chi hơn Tịnh. Luận cho cùng mỗi môn tự hàm đủ công năng của ba, song đó là ứng dụng của bậc trình độ cao siêu. Còn với bậc sơ cơ non kém, thật ra vẫn có sự sai biệt. Ví như bậc Tổ Sư về võ, dù sử dụng côn, chùy, kiếm, sự lợi hại vẫn đồng như nhau. Nhưng với hạng võ nghệ thông thường thì tác dụng của ba môn binh khí kia lại có sai biệt. Nếu chẳng thế, trong võ lâm cần chi bày ra ba môn ấy cho thêm phiền!?
Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng
CỐ HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
THÍCH Thượng THIỀN hạ TÂM thùy từ minh chứng
2. Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp
Ma Ra Na Ra [62]
Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.
UM! BÚT RUM! HÙM!
Na Ra Cẩn Trì [49]
Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.
UM! BÚT RUM! HÙM!
39. Đảnh-Thượng-Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp
Bồ-Ðà Dạ [47]
Án-- phạ nhựt-rị ni,
phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ
UM! BÚT RUM! HÙM!
34. Hiệp-Chưởng Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tất Rị Tất Rị [44]
Án --bát nạp mạng, nhá lăng hất rị.
UM! BÚT RUM! HÙM!
38. Bất-Thối Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Bồ-Đề Dạ [46]
Án-- thiết na di tả, tát-phạ hạ.
UM! BÚT RUM! HÙM!
Thất Na Thất Na [37]
Án-- vỉ tát phổ ra, na ra các xoa,
phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.
UM! BÚT RUM! HÙM!
42. Tổng-Nhiếp-Thiên Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp
Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]
Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.
UM! BÚT RUM! HÙM!
| Nhứt cú Di Ðà Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế. Thượng siêu bách phi Khởi lạc tứ cú! | Một câu A Di Ðà Là Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế. Còn vượt khỏi bách phi Huống rơi vào tứ cú! |
Trước tiên xin giải qua về Tứ Cú, Bách Phi. Tứ Cú là bốn câu gồm: Có, không, cũng có cũng không, và chẳng phải có chẳng phải không. Bách Phi: Bách là ước số lấy một trăm làm giới hạn. Phi là chẳng phải, tiêu biểu cho nghĩa bác phá. Ðây nói chân lý vốn phi hữu, phi vô, phi thường, phi đoạn, phi sanh, phi diệt, phi nhứt, phi dị, phi lai, phi khứ, phi hữu biên, phi vô biên v.v... cho đến cả một trăm thứ phi. Tại sao thế? Bởi lý tánh ấy tuyệt ngôn luận, dứt tâm tư, chẳng thể dùng lời nói và sự suy nghĩ mà viện đến và diễn tả được.
PHẬT MẪU CHUẨN-ÐỀ THẦN CHÚ
Khể thủ quy y tô tất đế
Đầu diện đảnh lễ thất cu chi
Ngã kim xưng tán đại Chuẩn đề
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.
NAM MÔ TÁT ĐA NẨM, TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ, CU CHI NẨM, ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA.
ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA.
|
|
( Trì tụng đến KHI tương tục không gián đoạn, THÌ tấc cả vọng niệm không sanh khởi sẽ thấy LINH NGHIỆM hay QUÁN 9 chữ PHẠN hiện ra rõ ràng sẽ thấy LINH NGHIỆM )
NGHI THỨC MẬT TỊNH
1. - MÔN LỄ BÁI
( Trước tiên đến nơi lễ tụng, rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán)
Pháp vương vô-thượng tôn
Tam-giới vô luân thất
Thiên nhơn chi Ðạo-sư
Tứ-sanh chi từ-phụ
Ư nhứt niệm quy-y
Năng diệt tam-kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán-thán
Ức kiếp mạc năng tận.
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
PHỔ LỄ CHƠN NGÔN
ÁN PHẠ NHỰT RA VẬT (7 lần)
( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM CANG HIỆP CHƯỞNG
để trên đầu, chấp hai tay lại ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10 phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trụ Tam-Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)
2.- MÔN TRÌ TỤNG
PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN
ÁN LAM
ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,
ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM. (7 lần)
( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Khi tụng chú này, kiết CHUẨN ĐỀ BIỆT ẤN.
Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.
Đây là phối hợp chú
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
ÁN LAM
và
TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN
ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,
ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM.
Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.
Trong Nhơn vị của đức Như Lai, nhiều năm tu hành không đắc đạo Bồ đề, sau tu tập quán pháp quán này, đầu hôm liền thành Chánh giác. Chữ HÁM
đủ vô lượng pháp môn. Là mẹ của tất cả Chơn ngôn. Tất cả đức Như Lai đều nhờ quán tưởng chữ này mà được thành Phật.
)
HƯƠNG TÁN
Nguyện mây hương mầu này,
Hiện khắp mười phương cõi.
Tất cả các Phật độ,
Vô lượng hương trang nghiêm.
Đầy đủ Bồ Tát đạo,
Thành tựu Như Lai hương.
Nam mô Hương Vân cái Bồ Tát ma ha tát (3 lần)
(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A Di Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên hôm nay con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(54 hoặc 108 lần)
(Khi tụng chân ngôn này, kiết ẤN VÔ LƯỢNG LIÊN HOA
Hai xoa bên ngoài hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự thân, tất cả tội chướng đều tiêu diệt.
Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất.
Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà cùng với vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc.
Câu: “UM! BÚT RUM! HÙM!” là chân ngôn “NHỨT TỰ CHUYỂN LUÂN”
như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN nầy.
Bút giả vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.
Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề. Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.
Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.
Tụng chân ngôn xong, kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối
Ẩn tu thôi mặc dở hay đời
Chỉ ước lâm chung dự biết thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.
Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !
Bi, Trí đôi đường phải suốt thông
Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn
Còn rành nhân thuật mới thành công !
Ẩn tu quyết chí gạt trần tình
Mặc nỗi khen chê lẫn bất bình
Sức yếu phải cam phần kém yếu
Tình đời ví nhẹ đạo tâm sinh.
Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu
Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm
LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.
Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi
Trước mất Lăng Nghiêm pháp diệu kỳ
Lần lượt các kinh đều diệt hết
Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.)
SÁM THẬP PHƯƠNG
Thập phương Tam-thế Phật
A-Di-Đà đệ nhứt,
Cửu phẩm độ chúng-sanh
Oai-đức vô cùng cực,
Ngã kim đại quy-y.
Sám-hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện,
Chí tâm dụng hồi-hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhơn,
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây-phương cảnh,
Phân-minh tại mục tiền,
Kiến văn giai tinh tấn,
Đồng sanh Cực-lạc quốc,
Kiến Phật liễu sanh-tử,
Như Phật-độ nhứt-thiết,
Vô-biên phiền-não đoạn,
Vô-lượng pháp môn tu;
Thệ nguyện độ chúng-sanh,
Tổng giai thành Phật đạo;
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như-Lai,
Tam giả quảng tu cúng-dường,
Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi-hướng.
Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,
Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,
Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,
Nhị đế dung thông tam-muội ấn,
Như thị vô-lượng công-đức hải,
Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,
Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng
Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,
Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,
Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,
Nãi chí hư-không thế-giới tận,
Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,
Như thị tứ pháp quảng vô-biên,
Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.
NAM MÔ ÐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)
(Kế tiếp, chắp tay đọc TÂM KINH và bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA. (3 lần)
Khể thủ tây phương An-Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng-sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ-bi ai nhiếp thọ
Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp-giới chúng-sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô-thượng bồ-đề đạo-cố, chuyên tâm trì niệm A-Di-Ðà-Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh-độ. Duy nguyện Từ-Phụ A-Di-Ðà Phật ai lân nhiếp thọ từ-bi gia hộ.
A-Di-Ðà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang-minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di.
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A-DI-ÐÀ PHẬT
(Kế tiếp niệm)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, Bút giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)
3.- MÔN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng CỐ HÒA THƯỢNG TÔN SƯ THÍCH Thượng THIỀN hạ TÂM thùy từ minh chứng (1 lạy)
CHUNG
54.-Ẩn tu chẳng ngại hung yêu ma
Vì để biệt phân chánh với tà
Chỉ sợ cửa không hàng phá Kiến
Dắt người lầm lạc khó nhìn ra.
Vậy sự việc PHÁ KIẾN là như thế nào?
Chẳng hạn như kẽ nói lý KHÔNG, bác sự Ăn chay, Sám hối, niệm Phật, tụng Kinh, cho là phương tiện để độ hàng thấp kém, chỉ có giữ tâm KHÔNG KHÔNG mới thật là CAO SIÊU, mau được Giác ngộ, nhưng cái không của họ kết cuộc chỉ là cái không rỗng tuếch, là NGOAN không chứ chẳng phải là CHÂN không.
Ví dụ như họ bảo ĐỊA là Tâm-địa, TẠNG là Tánh-tạng, chứ thực ra không có ĐỨC ĐỊA TẠNG, Tâm tham, sân, si, phiền não là Địa-ngục, chứ không có CÕI ĐỊA NGỤC nào khác, những người này thường là kẻ ở trong cửa Thiền, nói Lý Thiền, nhưng hiểu sai lầm rồi dẫn dắt không biết bao nhiêu người lầm lạc theo mình, lại tự cho là cao siêu.
Các bậc tu Thiền chân Chánh thấy thế rất đau lòng, buồn cho Phật Pháp, trong bài Chứng Đạo Ca, Vĩnh gia Huyền-Giác Thiền Sư có đề cập đến điều này qua mấy câu:
Nói rỗng không bác nhân quả,
Tràng Tràng đầy dẫy mang ương họa.
Nguyên tác,
“Hoát đạt không, bát nhân quả,
Mảng mảng đãng đãng chiêu ương họa.”
Có một vị bài bác việc Niệm Danh Hiệu Đức Bồ Tát Quán-Thế-Âm, thuộc phẩm PHỔ MÔN trong Kinh Pháp Hoa bảo:
Nói niệm Quán Thế Âm dứt trừ Tham Sân Si là không đúng, vì Tham Sân Si từ nơi TÂM SINH KHỞI, nếu chẳng dứt cái gốc của nó ở nơi tâm thì làm sao diệt trừ được. Cho nên, có nhiều bà niệm QUÁN ÂM mà vẫn đổ PHIỀN NÃO.
Xin đáp: Nói về LÝ niệm QUÁN ÂM mà chưa dứt được TAM ĐỘC là bởi sức TÍN Niệm và dụng Công không Triệt để, ví như nhà tu Thiền tuy biết Tam độc phát từ tâm, mà sự nhiếp TÂM dứt trừ chưa cùng cực, thì Lữa Tham Sân Si vẫn còn kẽ hở để phát khởi Bừng Cháy, huống chi là những Bà Quê Mùa không biết đạo lý đó.
Nếu nói về SỰ thì HỒNG DANH của Phật, Bồ tát có Vô-Lượng Công-Đức, kẽ niệm QUÁN ÂM tuy chưa hiểu đạo lý trên, nhưng nếu thường xuyên xưng Niệm thì Phiền não sẽ giảm nhẹ dần, Tâm trí cũng lần sáng suốt khai ngộ rồi đi đến sự Nhiếp-Tâm dức trừ hẳn, cái lỗi của vị TU SĨ bài bác đó, đáng lẽ khi thấy hàng Phật tử đã thực hành được SỰ niệm, thì nói thêm phần LÝ để cho họ được mau tăng tiến, trái lại phủ nhận hẳn không cho NIỆM, Bảo phải nhiếp tâm tham Thiền mới có hiệu quả, đó là chấp Lý bỏ Sự, là lỗi Phá-kiến do niệm Phân-biệt môn phái.
Lại có tội hủy báng Kinh điển và Phật Bồ tát, lại có một Phật-tử trần thuật mình có đứa con yêu quý, trong lúc nó ĐAU NẶNG, Cha Mẹ tha thiết Chí Thành Niệm Danh Hiệu QUÁN THẾ ÂM, Cầu cho con An-Lành, song Rốt cuộc đứa con vẫn CHẾT, từ đó cả hai vợ chồng nghe theo lời ông thầy Khuyên Bảo chỉ riêng lo tham Thiền, không còn tin tưởng nơi sự Tụng Kinh, Niệm Phật cùng danh hiệu Bồ-Tát nữa, thấy Phật-tử đó vì thương con, vì lầm nhận lời THẦY là đúng. Sanh niệm Cố chấp khó giải Tỏa, bút Giả không muốn nói nhiều, nhưng xin thuật lại một câu chuyện có thật, để khuyên những vị có trường hợp tương tự như trên.
Cách đây hơn 30 năm, nhân dịp xem một Nguyệt San Phật Giáo, dường như là tập VIÊN ÂM, bút Giả còn nhớ có một vị Phật-tử tự trần thuật lại việc mình đại khái như sau :
Do cơn SẢN nặng bị mệt lã, kể chắc khó sống, Bà Chí thành thầm niệm QUÁN ÂM, trong cơn mơ màng Bà thấy một vị đội mão mặc áo toàn trắng, đẹp như TIÊN NGA, bưng chậu LAN đi đến, NGỬI được mùi hương Thanh nhẹ của Hoa lan, Bà khỏe lần.
Kế đó, vị Nữ bưng ly nước bảo uống bà Thưa: Vì con mới sanh Bác-sĩ Hoàng Mộng Lương không cho uống nước lã, vị ấy bảo cứ uống rồi sẽ LÀNH BỆNH, sau khi uống ly nước, bà cảm thấy như tăng thêm sức lực, tinh thần sáng tỉnh, liền Giật mình thức dậy biết Chắc đó là đức QUÁN THẾ ÂM, nhưng đứa con mới sanh cũng đang đau, Bà lại Niệm Danh Hiệu Bồ-tát, Cầu cho nó mau mạnh khỏe, lần này cũng thấy vị Nữ đến không nói chi cả, bồng đứa bé quay mình bước đi, nghe một tiếng con nít khóc thét lên, Bà tỉnh giấc xem lại thì đứa con ĐÃ CHẾT.
Sau khi ra nhà Bảo-sanh, bà đến Chùa hỏi Nguyên-nhân tại sao niệm Bồ-tát không Linh, vị sư Cụ là Viện Chủ đáp: Chẳng phải không Linh Ứng vì nếu thế thì tại sao lần trước bà Niệm Bồ-Tát lại cứu cho MAU lành bệnh, nên biết chư Phật Bồ-tát đối với chúng sanh như CHA MẸ, thương nghĩ lo sự an toàn cho con, điều nào con muốn nếu xét thấy được thì CHO, như thấy có hại tất không hứa KHẢ.
Có lẽ đứa bé đó là OAN GIA TRÁI CHỦ của bà đầu thai vào để BÁO OÁN. Bồ-Tát muốn cứu độ cho Bà khỏi khổ về sau, nên mới bắt đi. Đây là một truyện nói về PHÁ KIẾN, lời nói của vị SƯ CỤ là đúng, lời ông THẦY Vợ Chồng Phật-tử kia là sai lầm, những khía cạnh về lỗi phá kiến rất nhiều, không thể kể hết ra đây được.
The Forty-Two Hands
TỶ KHƯU-NI HENG YIN đã dịch ra ANH-VĂN.
Do cố hòa thượng THIỀN-TÂM đã dịch ra VIỆT-VĂN, trong KINH QUÁN ÂM ĐẠI-BI TÂM ĐÀ-RA-NI.
Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm phù đề
COMMENTARY :
Concerning the Great Compassion Mantra and the Forty-two Hands and Eyes, someone asked, “How did the Bodhisattva Who Regards the World’s Sounds get a thousand hands and eyes ?”
The Bodhisattva has great awesome virtue and spiritual penetrations. His thousand eyes came from cultivation of the Great Compassion Dharma, which obtains the forty-two Hands. Cultivating them succeed he thereby gained a thousand hands and eyes. Which he looks to see what trouble people have and pull out of suffering. Cultivating the Forty-two Hands and Eyes perfection, he became complete with a thousand Hands and Eyes.
No matter who you are, if you meet the Great Compassion Dharma and cultivate the Forty-two Hands and Eyes will obtain a thousand hands and eyes, just like the Bodhisattva.
Dharmas of seeking refers to the Forty-two Hands and Eyes mention above. There are actually more then thousand, but we are just mentioning them in general.
Liên quan đến Chú Đại Bi và Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn Ấn Pháp, có người hỏi: “Làm thế nào mà Bồ Tát Quán Thế Âm có được ngàn Tay ngàn Mắt?”
Hòa Thượng Tuyên Hóa trả lời rằng: “Vị Bồ tát đó có đại Uy Đức và Thần Thông không thể nghĩ bàn được . Ngàn Tay ngàn Mắt của Ngài là do trì Chú Đại Bi và 42 Thủ Nhãn Ấn Pháp. Khi thành tựu PHÁP nầy, thì có được ngàn Tay ngàn Mắt. Ngàn Mắt để Quán xem sự khổ nạn của chúng sanh và ngàn Tay để cứu độ họ mau thoát khỏi mọi khổ đau. Tu viên mãn Bốn mươi hai Tay Mắt, thì sẽ thành tựu ngàn Tay ngàn Mắt.
BẤT LUẬN QUÝ VỊ LÀ AI, nếu tu theo Pháp Đại Bi và 42 Tay Mắt của Bồ Tát Quán Thế Âm trong KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI, thì sẽ có được NGÀN TAY NGÀN MẮT giống như BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM vậy”.
Những việc có thể mong cầu, được đề cập trong 42 Tay Mắt ở trên, thật ra có hơn ngàn việc, như ở đây chỉ nói ít phần mà thôi.
Ba mươi tám (38) năm về trước (1936), Luân tôi được bản in lẻ Kinh Lăng Nghiêm Chú Sớ này, được điều chưa từng có, giờ giờ khắc khắc nghiên cứu, thấy được cảnh giới vi mật, nên thường đem theo bên mình, chưa từng rời khỏi.
LĂNG NGHIÊM CHÚ SỚ LƯỢC GIẢNG
浙水慈雲寺顯密教觀沙門續法集
Triết thủy Từ Vân Tự Hiển Mật Giáo Quán Sa Môn Tục Pháp Tập
Giảng thuật: Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Hoa Kỳ
42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp
Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp
Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp
Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp
15. The Shield Hand and Eye
Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp
http://www.drbachinese.org/online_reading/sf_others/DaBeiJou/page64.htm
64. Tất Ra Tăng A Mục Khê Da
Hóa hiện Dược Vương đại bồ tát
Trừ “ÔN” diệt “DỊCH” cứu hằng sa
Phổ lịnh hữu tình ly tật khổ
Cam lộ biến sái hàm thức nha
NAM-MÔ DƯỢC-VƯƠNG BỒ-TÁT (3 LẦN)
MA-HA-TÁT (1 LẦN)
Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Sáu
(1 LẦN)
Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]
Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.
[
ÔN là bệnh truyền nhiễm.
DỊCH là bệnh lây cho mọi người.
CHO NÊN, NẾU QÚI VỊ MUỐN DIỆT TRỪ BỊNH ÔN DỊCH THÌ PHẢI TRÌ TỤNG
“Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp”
]
17. The Jade Ring Hand and Eye
Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp
18. The White Lotus Hand and Eye
Bạch-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
19. The Blue Lotus Hand and Eye
Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
20. The Jeweled Mirror Hand and Eye
Bảo-Kính Thủ Nhãn Ấn Pháp
21. The Purple Lotus Hand and Eye
Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
24. The Kundi Hand and Eye
Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp
25. The Red Lotus Hand and Eye
Hồng-Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
26. The Jeweled Halberd Hand and Eye
Bảo-KíchThủ Nhãn Ấn Pháp
27. The Jeweled Conch Hand and Eye
Bảo-LoaThủ Nhãn Ấn Pháp
28. The Skull Bone Staff Hand and Eye
Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp
29. The Recitation Beads Hand and Eye
Sổ-ChâuThủ Nhãn Ấn Pháp
30. The Jeweled Bell Hand and Eye
Bảo-ĐạcThủ Nhãn Ấn Pháp
31. The Jeweled Seal Hand and Eye
Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp
32. The Chu Shih Iron Hook Hand and Eye
Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp
36. The Transformation Palace Hand and Eye
Hóa-Cung-ĐiệnThủ Nhãn Ấn Pháp
37. The Jeweled Sutra Hand and Eye
Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp
38. The Non-retreating Gold Wheel Hand and Eye
Bất-Thối Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Comments
Post a Comment