Ngày 19 tháng 2 âm lịch là ngày Quán Thế Âm đản sinh.

Ngày 19 tháng 6 âm lịch là ngày Quán Thế Âm thành đạo.

Ngày 19 tháng 9 âm lịch là ngày Quán Thế Âm xuất gia.




Cảnh tỉnh về NGƯỜI tu tập NIỆM PHẬT


 
The Power of Patience


TIÊU TAI CÁT TƯỜNG cho đến thành PHẬT đều do “NHẪN” LỰC mà thành tựu


(Thông thường người đời chỉ TIN NHÂN QUẢ THẾ GIAN mà thôi, còn NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN thì không đủ NHẪN LỰC , để TIN ĐƯỢC NGUYỆN LỰC  CỦA CHƯ PHẬT, CHƯ BỒ TÁT…)


BỘ NHẬN   Gồm có  BỘ ĐAO  cộng với một NÉT CHẤM BÊN TRÁI  Là “NHẪN” LỰC khi bị con DAO đâm vào trái TIM, hình ảnh  NHẪN tượng trưng cho TÂM  Ý Ðược NHU HÒA và NHẪN NẠI Các Chướng Duyên.


“NHẪN” LỰC là Tùy cảnh để Cứu đời, hoặc Mặc (im lặng không nói) thời thuyết, hoặc thuyết thời mặc, hoặc thị hoặc phi, hoặc Nghịch hành thuận hành ..., trên tinh thần Đạo Đức CHUNG, lại phải cùng sống hòa hợp, cùng trao đổi KIẾN THỨC để bổ khuyết cho nhau..., hoặc  trì Chú, tụng Kinh, tham Thiền…Đây là PHƯƠNG TIỆN "NHẪN" LỰC làm cứu cánh.


Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:


"BỒ ĐỀ TÂM” làm NHÂN, “ĐẠI BI” làm căn bản, “PHƯƠNG TIỆN” làm cứu cánh. Nếu quên mất "BỒ ĐỀ TÂM” mà tu các pháp lành, đó là “NGHIỆP MA”.


 "BỒ ĐỀ TÂM” làm NHÂN, do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.

“ĐẠI BI TÂM” làm căn bản, do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.

Đây là “LÝ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI”.

 

 “PHƯƠNG TIỆN” làm cứu cánh, do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.

Đây là “SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI”. Như  trì Chú, tụng Kinh, tham Thiền…hoặc làm tất cả việc Thiện thế gian hay  Xuất thế gian cho đến thành PHẬT, đều do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.

Đây là “LÝ SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI” cho đến “SỰ SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI”.


Mặc (im lặng không nói) thời thuyết, thuyết thời mặc,

Ðại thí môn khai vô ủng tắc.

Hữu nhân vấn ngã giải hà tông?

Báo đạo ma-ha bát-nhã lực. (TỨ VÔ NGẠI BIỆN TÀI)


Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức,

Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc.


(Vĩnh Gia Chứng Ðạo Ca)




42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp





The Dharani Sutra


THE SUTRA OF

THE VAST, GREAT, PERFECT, FULL, UNIMPEDED,

GREAT COMPASSION HEART DHARANI

OF THE 

THOUSAND-HANDED, THOUSAND-EYED

BODHISATTVA WHO REGARDS THE WORLD’S SOUNDS

 

with the commentary of 

THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA

 

Translated into English by

BHIKSHUNI HENG YIN

 

THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY

SAN FRANCISCO

1976

 


 

TABLE OF CONTENTS

 

 

 

PART ONE: 

THE SUTRA



THE SUTRA OF


THE VAST, GREAT, PERFECT, FULL, UNIMPEDED,

GREAT COMPASSION HEART DHARANI

OF THE

THOUSAND-HANDED, THOUSAND-EYED

BODHISATTVA WHO REGARDS THE WORLD’S SOUNDS



http://www.dharmasite.net/daibidalani1.htm



THE SUTRA OF GREAT COMPASSION HEART DHARANI Commentary



Great Compassion Dharani Sutra Translated into English by Silfong Tsun



KINH THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN

QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN

VÔ-NGẠI ĐẠI-BI-TÂM ÐÀ-RA-NI

 

LỜI BẠT


I. PHẦN TỰ

II. PHẦN CHÁNH-TÔNG

III. PHẦN LƯU-THÔNG





PART TWO : 

THE MANTRA


THE GREAT COMPASSION MANTRA

with the commentary of

THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA



ĐẠI BI CHÚ

 CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)

 

Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa

Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU

 



1. The As-You-Will Pearl Hand and Eye

      MARA MARA (MA RA MA RA)    

        25. MA RA MA RA


2. The Lariat Hand and Eye

        PRANILA (B RA NI LA)     

        62. MA RA NA RA


3. The Jeweled Bowl Hand and Eye

      HULU HULU SHRI ( HU LU HU LU SÍ RI)    

      42. HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ LỴ


4. The Jeweled Sword Hand and Eye

       TRISA RANA (TRI SA RA NA)     

       50. ÐỊA RỊ SẮC NI NA


5. The Vajra Hand and Eye

       CHAKRA ASTAYA (ST K RA, A SÍT TA DA)    

       68. GIẢ KIẾT RA A TẤT ÐÀ DẠ


6. The Vajra Pestle Hand and Eye

        SARA SARA (SA RA SA RA)    

        43. TA RA TA RA


7. The Bestowing Fearlessness Hand and Eye

      NILAKANTÉ PANTALAYA (NI LA KANH TÊ BANH TA LA DA)   

      72. NA RA CẨN TRÌ BÀN ÐÀ RA DẠ


8. The Sun Essence Mani Hand and Eye

         SHVARAYA (SOA VA RA DA)

          32. THẤT PHẬT RA DA


9. The Moon Essence Mani Hand and Eye

        DHURU DHURU (ĐU RU ĐU RU)

         28. ÐỘ LÔ ÐỘ LÔ


10. The Jeweled Bow Hand and Eye

         BASHÁ BHASNIN (BA SA PHA SÍ NIN)

           39. PHẠT SA PHẠT SÂM


11. The Jeweled arrow Hand and Eye

        BHAYA MANE (PHA DA MA NÊ)

         51. BA DẠ MA NA


12. The Willow Branch Hand and Eye

      MUDHILI (MUÝT ĐI LI)

      35. MỤC ÐẾ LỆ


13. The White Whisk Hand and Eye

        MÀMÀ (MẠ MẠ)

          34. MẠ MẠ 

        

14. The hu Bottle Hand and Eye

         NILAKANSTA (NI LA KANH SÍ TA)

          49. NA RA CẨN TRÌ


15. The Shield Hand and Eye

         BHASHIYATI (PHA SI DA TI)

        28. PHẠT XÀ DA ÐẾ


16. The Ax Hand and Eye

         SHRISINHAMUKHAYA (SÍT RI SIN HA MUÝT KHA DA)

           64. TẤT RA TĂNG A MỤC KHÊ DA


17. The Jade Ring Hand and Eye

       HULU HULU PRA (HU LU HU LU BỜ RA)

        41. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA


18. The White Lotus Hand and Eye

         GHAMAIN (GÀ MĂN)

         27. KIẾT MÔNG


19. The Blue Lotus Hand and Eye

         RIDHAYU (RÍT ĐÀ DU)

           26. RỊ ÐÀ DỰNG


20. The Jeweled Mirror  Hand and Eye

         SHINA SHINA (SI NA SI NA)

         37. THẤT NA THẤT NA


21. The Purple Lotus Hand and Eye

         BHARASHÁYA (PHA RA SÁ DA)

           40. PHẬT RA XÁ DA


22. The Jewel-chest Hand and Eye

         SITAYAYE (SI TA DA DÊ)

         SHVARAYA (SOA VA RA DA)

           57. TẤT ÐÀ DU NGHỆ

           58. THẤT BÀN RA DẠ


23. The Five-colored Cloud Hand and Eye

           MASHI MASHI (MA SI MA SI)

             26. MA HÊ MA HÊ


24. The Kundi Hand and Eye

          DHARA DHARA (ĐA RA ĐA RA)

           30. ÐÀ RA ÐÀ RA


25. The Red Lotus Hand and Eye

         PADMAKÉSTAYA (PÁT ĐƠ MẠ KÊ SÍT TA DA)

          70. BÀ ÐÀ MA YẾT TẤT ÐÀ DẠ


26. The Jeweled Halberd Hand and Eye

         MAHA BHASHIYATI (MA HA PHA SI DA TI)

         29. MA HA PHẠT XÀ DA ÐẾ


27. The Jeweled Conch Hand and Eye

        GURU GURU (GU RU GU RU)

        27. CU-LÔ CU-LÔ 


28. The Skull Bone Staff Hand and Eye

       EHY EHY (Ê HY Ê HY)

       36. Y HÊ DI HÊ


29. The Recitation Beads Hand and Eye

       BALASHÁRI (BA LA SÁ RI)

         38. PHẬT RA XÁ-LỢI


30. The Jeweled Bell Hand and Eye

        JÁLA JÁLA (JÁ LA JÁ LA)  

        33. DÁ RA DÁ RA


31. The Jeweled Seal Hand and Eye

        SABHO SABHO (SA PHÔ SA PHÔ)

        24. TÁT BÀ TÁT BÀ


32. The Corpse Iron Hook Hand and Eye

        DHIRINI (ĐI RI NI)

        31. ÐỊA RỊ NI


33. The Pewter Staff Hand and Eye

      MAITRIYÉ (MÉT TRI DÊ)

      48. DI ÐẾ RỊ DẠ


34. The Joined Palms Hand and Eye 

         SIRI SIRI (SI RI SI RI)

         44. TẤT RỊ TẤT RỊ


35. The Transformation Buddha on the Palm Hand and Eye

        ALASHIN (A LA SIN)

        38. A RA SÂM 


36. The Transformation Palace Hand and Eye 

        BHÀMARA (PHẠ MA RA)

       34. PHẠT MA RA



37. The Jeweled Sutra Hand and Eye

       SITAYA. (SI TA DA.)

       SVAHA.  (SÓA HA.)    

       MAHA SITAYA. (MA HA SI TA DA.)

       SVAHA.  (SÓA HA.) 


        53. TẤT ÐÀ DẠ

        54. TA BÀ HA

        55. MA HA TẤT ÐÀ DẠ

        56. TA BÀ HA


38. The Non-retreating Gold Wheel Hand and Eye

       BUDDHÀYA (BUÝT ĐÀ DA)

       46. BỒ-ÐỀ DẠ 


39. The Transformation Buddha  Atop the Crown Hand and Eye

       BUDHÀYA (BỒ ĐÀ DA) 

       47. BỒ-ÐÀ DẠ 


40. The Grape Hand and Eye 

         ASTAYA (A SÍT TA DA)

        66. A TẤT ÐÀ DẠ


41. The Sweet Dew Hand and Eye

        SURU SURU (SU RU SU RU)

        45. TÔ RÔ TÔ RÔ


42. The Uniting and Holding Thousand Arms Hand and Eye

         MOPHOLISHAN KARAYA (MÔ PHÔ LI SĂN, KA RA DA)

         74. MA BÀ LỴ THẮNG YẾT RA DẠ




PART THREE : 

MANTRA ILLUSTRATIONS




THE BODHISATTVA WHO REGARDS THE WORLD'S SOUNDS

Nam-mô Ðại-bi QUÁN-THẾ-ÂM Bồ-tát



THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA

Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư TUYÊN-HÓA


MANTRA ILLUSTRATIONS

Thần Chú Xuất-Tượng





11-20 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

21-30 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

31-40 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

41-50 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

51-60 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

61-70 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

71-84 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES



八十四相大悲咒

84 The Great Compassion Mantra Illustrations



XUẤT TƯỢNG




PART FOUR :  

THE FORTY-TWO HANDS




Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,

Trần thế vinh-hư sá kể gì.

Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,

Mừng nay được thấy đức A-Di.



Bút giả (Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm) vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.

Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề.  Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.

Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.

 

Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:

 

Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.

 

Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!

 

Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!

 

Nhứt cú Di Ðà
Nhứt Ðại Tạng Kinh
Tung hoành giao thái
Tuyệt đãi u linh.

(Một câu A Di Ðà
Là một Ðại Tạng Kinh
Dọc, ngang giao chói sáng
Tuyệt đối, thể u linh.)

 

LỜI BÀN: 

 

Thông thường người tụng kinh đều tìm kiến giải, rồi theo kiến giải mà thực hành, như theo Hòa Thượng thì quên hết mọi điều kiến giải, đọc từ đầu đến cuối, thì mới hợp với “CHƠN TÂM BỔN TÁNH”. 

Cũng như lìa sáu trần: Sắc, Thanh, Hương,Vị, Xúc, Pháp mà có sự hiểu biết , thì đó mới là CHƠN TÂM của chính mình. (KINH LĂNG NGHIÊM)

Ðể kết luận, cần nhấn rõ thêm là những điều nói trên tuyệt không có ý bài bác Thiền, Mật. Thiền và Mật là hai pháp môn cao siêu, và thật ra Thiền, Mật, Tịnh cả ba đều có đặc điểm riêng, cần tu học để hỗ trợ cho nhau. Chẳng hạn như khi trì chú theo của chân ngôn, Phật hiệu huân sâu vào tạng thức, kích động cho phiền não nổi dậy, phương pháp làm lắng động hữu hiệu nhứt không chi hơn Thiền. Trong lúc tham thiền hoặc niệm Phật, ma chướng trong ngoài khuấy rối, cách hàng phục kiến hiệu mau lẹ nhứt, không chi hơn Mật. Và muốn giải quyết việc lớn là sống chết luân hồi một cách thẳng tắt chắc chắn nhứt, lại không chi hơn Tịnh. Luận cho cùng mỗi môn tự hàm đủ công năng của ba, song đó là ứng dụng của bậc trình độ cao siêu. Còn với bậc sơ cơ non kém, thật ra vẫn có sự sai biệt. Ví như bậc Tổ Sư về võ, dù sử dụng côn, chùy, kiếm, sự lợi hại vẫn đồng như nhau. Nhưng với hạng võ nghệ thông thường thì tác dụng của ba môn binh khí kia lại có sai biệt. Nếu chẳng thế, trong võ lâm cần chi bày ra ba môn ấy cho thêm phiền!?


Cho nên trong thời mạt pháp, theo thiển ý nên lấy Tịnh Ðộ làm chánh yếu, Thiền, Mật... làm phụ trợ. Hoặc nếu có tu Thiền hay Mật... cũng nên niệm Phật nhiều ít hồi hướng về cõi Cực Lạc ở Tây phương.




Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng

CỐ HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

THÍCH Thượng THIỀN hạ TÂM thùy từ minh chứng


ẨN TU NGẪU VỊNH





UM! BÚT RUM!  HÙM! 


    

2. Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp


Ma Ra Na Ra [62]

Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 






14. Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp


Na Ra Cẩn Trì [49]

Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 











 

39. Đảnh-Thượng-Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp

  

Bồ-Ðà Dạ [47]

  Án-- phạ nhựt-rị ni,

                                            phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ

 UM! BÚT RUM!  HÙM! 




 

34. Hiệp-Chưởng Thủ Nhãn Ấn Pháp

 

Tất Rị Tất Rị [44]

Án --bát nạp mạng, nhá lăng hất rị.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 




38. Bất-Thối Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp

 

Bồ-Đề Dạ [46]

Án-- thiết na di tả, tát-phạ hạ.

UM! BÚT RUM!  HÙM!  





20. Bảo-Cảnh Thủ Nhãn Ấn Pháp

 

Thất Na Thất Na [37]  

Án-- vỉ tát phổ ra, na ra các xoa,

                                   phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.

 UM! BÚT RUM!  HÙM! 





42. Tổng-Nhiếp-Thiên Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp

  

Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74] 

Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,

tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.

 UM! BÚT RUM!  HÙM! 




"Nên khuyến hóa hơn là dùng uy lực gây oan trái."

Sáng ra tôi thuyết giáo chỉ rõ lối chấp sai lầm không lợi ích cho con ma nghe, nó xin sẽ chuyển hướng tu theo chánh pháp.




MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT 

 Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường

 


   

 

Nhứt cú Di Ðà
Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế.
Thượng siêu bách phi
Khởi lạc tứ cú!

 

Một câu A Di Ðà
Là Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế.
Còn vượt khỏi bách phi
Huống rơi vào tứ cú!



Trước tiên xin giải qua về Tứ Cú, Bách Phi. Tứ  Cú là bốn câu gồm: Có, không, cũng có cũng không, và chẳng phải có chẳng phải không. Bách Phi: Bách là ước số lấy một trăm làm giới hạn. Phi là chẳng phải, tiêu biểu cho nghĩa bác phá. Ðây nói chân lý vốn phi hữu, phi vô, phi thường, phi đoạn, phi sanh, phi diệt, phi nhứt, phi dị, phi lai, phi khứ, phi hữu biên, phi vô biên v.v... cho đến cả một trăm thứ phi. Tại sao thế? Bởi lý tánh ấy tuyệt ngôn luận, dứt tâm tư, chẳng thể dùng lời nói và sự suy nghĩ mà viện đến và diễn tả được.


Còn Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế là thế nào? Ðây là nghĩa chân thật bậc nhứt, bên Tông mệnh danh là: Một bước trên đầu sào trăm trượng, bên Giáo gọi là: Bất Nhị pháp môn hay Thánh Ðế. Xin mượn lời vấn đáp của vua Lương Võ hỏi tổ Ðạt Ma để tạm giải thích: Hỏi: "Bạch ngài! Sao gọi là Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế hay Thánh Ðế?". Ðáp: "Rỗng rang không tánh!".


Quy kết lại, ý bài kệ trên nói: Một câu A Di Ðà, nếu vận dụng đến mức cùng tột, hành giả sẽ lìa tứ cú, vượt khỏi bách phi, đi ngay vào Ðệ Nhứt Nghĩa Môn, tức thể nhập chân tâm vậy.


Qua năm bài kệ liên quan nhau nói trên, từ diễn dịch cho đến quy nạp, ở điểm nào câu niệm Phật cũng dung thông không ngại. Nhưng luận về phần căn bản, các lối chấp của nhà tu học Phật pháp xưa nay chẳng ngoài hai điểm: Có và Không. Bước đầu tiên vào đạo, và cũng thuộc phần đa số, người tu Phật thường hay chấp Có. Khi làm các công đức lành, họ sanh niệm trước tướng, đôi khi dẫn đến sự tự mãn khoe khoang. Lối chấp này gây trở ngại cho bước ngộ đạo, tiến trình đến cảnh giới giải thoát.


Sau khi đi sâu thêm vào biển Phật pháp, xem đến kinh Kim Cang, Pháp Bảo Ðàn, hoặc nghiên cứu về thiên lý cao siêu, hầu hết lại rơi vào lối chấp Không. Do đó, có nhiều kẻ đã không xem trọng điểm ăn chay, giữ giới, bác bỏ sự niệm Phật tụng kinh cùng các việc làm lành, cho là thấp kém trước tướng, chẳng hợp với trình độ cao siêu của lý Không. Họ đâu hiểu lý Không của Ðại thừa là làm tất cả công đức hữu vi mà không chấp thấy có tướng làm. Chẳng hạn như kinh Kim Cang bảo Bồ Tát bố thí chẳng nên trụ tuớng, là không chấp thấy mình là người thí cho, đây là vật trao giúp, kia là kẻ được ân huệ nhận lãnh. Bố thí như thế công đức mới vô hạn lượng, rộng lớn như hư không. Trong ấy cũng nói về tụng kinh này sẽ được công đức như thế nào? Vậy thì kinh Kim Cang, một áo điển diễn đạt về lý Không của Ðại Thừa đâu từng bác bỏ việc tụng kinh, bố thí?


Trong hai lối chấp trên, chấp Có hãy còn gốc luân hồi, song chấp với những việc lành, cũng sẽ được phước báu cõi Nhơn Thiên. Ðến như chấp Không, bác phá tất cả sự tướng thì quả thật là tai hại. Kinh Phật gọi đó là tội phá chánh kiến, bởi vì bài bác nhân quả. Nó gây sự lầm lạc cho mình và người hủy hoại Phật pháp, khiến cho đương nhơn dễ sa vào địa ngục! Ðây là hiện tượng mà các bậc thiện tri thức gọi là nhức đầu đau tim (thống tâm tật thủ) vì nó gây tổn thương rất nhiều cho Phật giáo. Chấp Không như thế lại dễ khiến cho loài Không Ma dựa vào tác hại, làm hành giả đảo điên. Bút giả đã gặp một Thượng Tọa thuật lại câu chuyện như sau:


Theo ý tôi, vị Thượng Tọa ấy nói, việc tham thiền chỉ thích hợp riêng cho một số ít người bậc thượng căn. Thời nay, phần đông hàng tăng, tục khi tu, nên lấy niệm Phật làm phần chánh, tụng kinh hoặc trì chú làm phụ. Bởi tham thiền mà chưa thể thường nhiếp tâm vào định, hoặc hiểu sai lầm rồi trụ tâm nơi cái ngoan không ám muội, tất sẽ bị loài không ma dựa vào. Chính tôi đã mục kích vài ba người trong trường hợp này. Ðộ nọ, có một sư cô đến gặp tôi đảnh lễ, trình thưa rằng: "Huynh đệ con hơn mười người, trước kia đã thọ giáo với một vị tự xưng là Khán Không thiền sư. Vị này bảo phải gạt hết tướng có, trụ tâm vào nơi không. Huynh đệ con thật hành theo một thời gian, về sau tất cả đều bị loài ma ám nhập, nói việc vị lai quá khứ, luận thuyết toàn là lý Không. 


Riêng phần con, nó đã dựa vào hơn mười năm. Hiện thời khi gặp tượng hay kinh Phật, nó giục bảo phải đập phá xé bỏ. Gặp hàng Tăng Ni, lại giục bảo phải chửi mắng, nói những lời thô tục. Con tự kềm hãm chống trả lại, tìm nhiều bậc Pháp sư cầu cứu, song họ đều nói con ma này uy lực cao không thể trục xuất ra được. Nay con đến đây đảnh lễ cầu xin thầy có phương pháp chi giải thoát dùm con!". Tôi nghe nói, bảo sư cô ấy tạm nằm nơi ghế dựa, rồi ngồi phía sau để tay kiết ấn nơi đảnh mà trì chú Chuẩn Ðề. Tụng một lát, cô ấy chuyển lời nói con ma năn nỉ xin tha, vì nó ra ngoài bơ bơ không nơi nương tựa. Tôi không chấp thuận, tiếp tục trì chú mãi. Ban sơ, sư cô nghiêng trở, dằn vật mình, kế tiếp lần lần thở gấp gần như đứt hơi. Tôi thấy thế liền dừng lại, vì biết nếu cứ trì tụng tiếp, nó có thể liều chết giết người bịnh trước, phó mặc cho sự thể ra sao thì ra. Ðã có vài vị pháp sư bị cảnh ma giết người bịnh trong trường hợp này.


Tối hôm ấy, tôi trì chú, cầu nguyện xin chư thần giúp đỡ. Hơn một giờ đêm, trong giấc mơ tôi thấy có hai vị Kim Cang sứ giả. Một vị thân màu đen như sắt, khôi giáp toàn trắng; vị kia thân trắng như bạc, khôi giáp toàn đen. Trước tiên, Thiết sứ giả lấy ra một binh khí lạ dường như xa luân múa lên. Giây phút, từ binh khí ấy phát tiếng kêu vo vo, phóng ánh sáng lạ mắt. Kế tiếp vị Ngân sứ giả đưa tay ra ngăn lại bảo: "Hãy từ từ xem nó có chịu cải hối hay không đã!". Tới đây, cảnh tượng đều ẩn mất. Thức tỉnh, tôi ngẫm nghĩ biết chư vị mách bảo: Nên khuyến hóa hơn là dùng uy lực gây oan trái. Sáng ra tôi thuyết giáo chỉ rõ lối chấp sai lầm không lợi ích cho con ma nghe, nó xin sẽ chuyển hướng tu theo chánh pháp. Riêng phần sư cô nọ, tôi bảo vì loài ma đã dựa vào quá lâu, nên thể phách của nó có phần dính liền với thể xác. Nếu vội trục xuất, e cho thân của người bịnh sẽ bị tổn. Tôi truyền ấn và chú Chuẩn Ðề, bảo cô nên hằng ngày trì tụng. Với uy lực của chú, ma sẽ từ từ xuất ra. Sư cô ấy vâng lời.


Nói xong vị Thượng Tọa kết luận: Sự nhận thức cùng tu tập sai lầm, gây nên tổn hại và cứu gỡ khó khăn là như thế.




NAM MÔ ĐẠI THÁNH CHUẨN ĐỀ VƯƠNG BỒ TÁT MA HA TÁT 


PHẬT MẪU CHUẨN-ÐỀ THẦN CHÚ



Khể thủ quy y tô tất đế

Đầu diện đảnh lễ thất cu chi

Ngã kim xưng tán đại Chuẩn đề

Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.




NAM MÔ TÁT ĐA NẨM, TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ, CU CHI NẨM, ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA. 


 (108 biến)


ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA. 


 


 

 ( Trì tụng đến KHI tương tục không gián đoạn, THÌ tấc cả vọng niệm không sanh khởi sẽ thấy LINH NGHIỆM hay QUÁN 9 chữ PHẠN hiện ra rõ ràng sẽ thấy LINH NGHIỆM )



NGHI THỨC MẬT TỊNH

 

 

1. - MÔN LỄ BÁI

 

( Trước tiên đến nơi lễ tụng, rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán)

 

Pháp vương vô-thượng tôn

Tam-giới vô luân thất

Thiên nhơn chi Ðạo-sư

Tứ-sanh chi từ-phụ

Ư nhứt niệm quy-y

Năng diệt tam-kỳ nghiệp

Xưng dương nhược tán-thán

Ức kiếp mạc năng tận.

Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,

Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,

Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,

Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

 

 

PHỔ LỄ CHƠN NGÔN

 

ÁN PHẠ NHỰT RA VẬT (7 lần)

 

 

            ( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM CANG HIỆP CHƯỞNG



để trên đầu, chấp hai tay lại  ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10  phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)

 

 

Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trụ Tam-Bảo. (1 lạy)

 

Chí tâm đảnh lễ:  Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)

 

Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)

 

 

2.- MÔN TRÌ TỤNG


 

PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN

 

ÁN LAM

ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,

ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM. (7 lần)

 

 

( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Khi tụng chú này, kiết CHUẨN ĐỀ BIỆT ẤN

 


Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.

 

Đây là phối hợp chú 

 

TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN 

ÁN LAM

 

và  

 

 

 TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN

 

ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,

ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM.

 

 Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.  


Trong Nhơn vị của đức Như Lai, nhiều năm tu hành không đắc đạo Bồ đề, sau tu tập quán pháp quán này, đầu hôm liền thành Chánh giác. Chữ HÁM





đủ vô lượng pháp môn. Là mẹ của tất cả Chơn ngôn. Tất cả đức Như Lai đều nhờ quán tưởng chữ này mà được thành Phật.

 


HƯƠNG TÁN


 

      Nguyện mây hương mầu này,

                 Hiện khắp mười phương cõi.

                 Tất cả các Phật độ,

                 Vô lượng hương trang nghiêm.

                 Đầy đủ Bồ Tát đạo,

                 Thành tựu Như Lai hương.

 

Nam mô Hương Vân cái Bồ Tát ma ha tát (3 lần)

 

(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)

         

         Quang, thọ khó suy lường,

          Sáng lặng khắp mười phương.

          Thế Tôn Vô Lượng Quang,

          Cha lành cõi Liên ban.

          Thần lực chẳng tư nghì,

          Sống lâu A tăng kỳ.

          A Di Đà Như Lai,

          Tiếp dẫn lên liên đài.

          Cực Lạc cõi thuần tịnh,

          Công đức lạ trang nghiêm.

          Nơi tất cả quần sanh,

          Vượt lên ngôi Bất thối.

          Mười phương hằng sa Phật.

          Đều ngợi khen Vô Lượng.

          Cho nên hôm nay con,

          Nguyện sanh về An Dưỡng.

 

Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)


 

VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN

 

NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA. 

NAM MÔ A RỊ DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI RỊ TI.  A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ GA BÊ.  A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI RỊ TÁ SI TÊ.  A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ.  A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI.  SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI.  SẠT VA MA CA LI.  SA KHẤT SÁ DU CA LI.  SÓA HA.

 

UM! BÚT RUM!  HÙM!

 

(54 hoặc 108 lần)

 

  

(Khi tụng chân ngôn này, kiết ẤN VÔ LƯỢNG LIÊN HOA

 


Hai xoa bên ngoài hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự thân, tất cả tội chướng đều tiêu diệt.

Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất.

Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà cùng với  vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc.

 

Câu: “UM! BÚT RUM!  HÙM!” là chân ngôn “NHỨT TỰ CHUYỂN LUÂN”

 

 

như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú  LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN nầy.


Bút giả vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.

Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề.  Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.

Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.

 

Tụng chân ngôn xong, kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối

 

Ẩn tu thôi mặc dở hay đời

Chỉ ước lâm chung dự biết thời

Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc

Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.

 

Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !

Bi, Trí đôi đường phải suốt thông

Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn

Còn rành nhân thuật mới thành công !

 

Ẩn tu quyết chí gạt trần tình

Mặc nỗi khen chê lẫn bất bình

Sức yếu phải cam phần kém yếu

Tình đời ví nhẹ đạo tâm sinh.

 

Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu

Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu

Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm

LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.

 

Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi

Trước mất Lăng Nghiêm pháp diệu kỳ

Lần lượt các kinh đều diệt hết

Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.)

 

 

SÁM THẬP PHƯƠNG

 

 

Thập phương Tam-thế Phật

A-Di-Đà đệ nhứt,

Cửu phẩm độ chúng-sanh

Oai-đức vô cùng cực,

Ngã kim đại quy-y.

Sám-hối tam nghiệp tội,

Phàm hữu chư phước thiện,

Chí tâm dụng hồi-hướng.

Nguyện đồng niệm Phật nhơn,

Cảm ứng tùy thời hiện,

Lâm chung Tây-phương cảnh,

Phân-minh tại mục tiền,

Kiến văn giai tinh tấn,

Đồng sanh Cực-lạc quốc,

Kiến Phật liễu sanh-tử,

Như Phật-độ nhứt-thiết,

Vô-biên phiền-não đoạn,

Vô-lượng pháp môn tu;

Thệ nguyện độ chúng-sanh,

Tổng giai thành Phật đạo;

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.

 

Nhứt giả lễ kính chư Phật,

Nhị giả xưng tán Như-Lai,

Tam giả quảng tu cúng-dường,

Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,

Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,

Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,

Thất giả thỉnh Phật trụ thế,

Bát giả thường tùy Phật học,

Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,

Thập giả phổ giai hồi-hướng.

 

Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,

Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,

Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,

Nhị đế dung thông tam-muội ấn,

Như thị vô-lượng công-đức hải,

Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,

Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,

Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,

Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng

Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,

Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,

Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,

Nãi chí hư-không thế-giới tận,

Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,

Như thị tứ pháp quảng vô-biên,

Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.

 

NAM MÔ ÐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT.  (3 lần)

 

 

(Kế tiếp, chắp tay đọc TÂM KINH và bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)

 

 


MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

 


Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

 

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.

 

 

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA. (3 lần)

 

 

Khể thủ tây phương An-Lạc quốc

Tiếp dẫn chúng-sanh đại đạo sư

Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh

Duy nguyện từ-bi ai nhiếp thọ

 

Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp-giới chúng-sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô-thượng bồ-đề đạo-cố, chuyên tâm trì niệm A-Di-Ðà-Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh-độ. Duy nguyện Từ-Phụ A-Di-Ðà Phật ai lân nhiếp thọ từ-bi gia hộ.

 

A-Di-Ðà Phật thân kim sắc

Tướng hảo quang-minh vô đẳng luân,

Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di.

Hám mục trừng thanh tứ đại hải,

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa bồ-tát chúng diệc vô-biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

 

 

NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI

ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A-DI-ÐÀ PHẬT

        

  (Kế tiếp niệm)

 

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

 

( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.

          Về cách trì niệm, Bút giả  lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:

 

1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.

 

2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.

 

3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt.  Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.

 

4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.

 

          Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)

 

 

3.- MÔN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

 

(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)

 

Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)

Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)


 

(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)

 

 

Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.

 

Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.

         

          ( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)

 

 

NHỨT TÂM QUY MẠNG  ÐẢNH LỄ:  Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)


Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)

 

Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)

 

Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)





NHỨT TÂM QUY MẠNG  ÐẢNH LỄ: Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng CỐ HÒA THƯỢNG TÔN SƯ THÍCH Thượng THIỀN hạ TÂM thùy từ minh chứng (1 lạy)

  

CHUNG


 

54.-Ẩn tu chẳng ngại hung yêu ma

Vì để biệt phân chánh với tà

Chỉ sợ cửa không hàng phá Kiến

Dắt người lầm lạc khó nhìn ra.

 

 NHƯ Ý : Phá-kiến là phá hư Chánh-kiến, làm mất sự thấy hiểu chân chánh của Mình và Người. Hạng yêu Tà cho đến Danh lợi, phá Giới không đáng ngại vì dễ nhận biết, dù cho Khéo dấu cũng lần lượt bị lộ Hình.

 

Vậy sự việc PHÁ KIẾN là như thế nào?

 

Chẳng hạn như kẽ nói lý KHÔNG, bác sự Ăn chay, Sám hối, niệm Phật, tụng Kinh, cho là phương tiện để độ hàng thấp kém, chỉ có giữ tâm KHÔNG KHÔNG mới thật là CAO SIÊU, mau được Giác ngộ, nhưng cái không của họ kết cuộc chỉ là cái không rỗng tuếch, là NGOAN không chứ chẳng phải là CHÂN không.

 

 Ví dụ như họ bảo ĐỊA là Tâm-địa, TẠNG là Tánh-tạng, chứ thực ra không có ĐỨC ĐỊA TẠNG, Tâm tham, sân, si, phiền não là Địa-ngục, chứ không có CÕI ĐỊA NGỤC nào khác, những người này thường là kẻ ở trong cửa Thiền, nói Lý Thiền, nhưng hiểu sai lầm rồi dẫn dắt không biết bao nhiêu người lầm lạc theo mình, lại tự cho là cao siêu.


Các bậc tu Thiền chân Chánh thấy thế rất đau lòng, buồn cho Phật Pháp, trong bài Chứng Đạo Ca, Vĩnh gia Huyền-Giác Thiền Sư có đề cập đến điều này qua mấy câu:

 

Nói rỗng không bác nhân quả,

Tràng Tràng đầy dẫy mang ương họa.

 

 Nguyên tác,

 

“Hoát đạt không, bát nhân quả,

Mảng mảng đãng đãng chiêu ương họa.”

 

Có một vị bài bác việc Niệm Danh Hiệu Đức Bồ Tát Quán-Thế-Âm, thuộc phẩm PHỔ MÔN trong Kinh Pháp Hoa bảo:


Nói niệm Quán Thế Âm dứt trừ Tham Sân Si là không đúng, vì Tham Sân Si từ nơi TÂM SINH KHỞI, nếu chẳng dứt cái gốc của nó ở nơi tâm thì làm sao diệt trừ được. Cho nên, có nhiều bà niệm QUÁN ÂM mà vẫn đổ PHIỀN NÃO.

 

 Xin đáp:  Nói về  niệm QUÁN ÂM mà chưa dứt được TAM ĐỘC là bởi sức TÍN Niệm và dụng Công không Triệt để,  ví như nhà tu Thiền tuy biết Tam độc phát từ tâm, mà sự nhiếp TÂM dứt trừ chưa cùng cực, thì Lữa Tham Sân Si vẫn còn kẽ hở để phát khởi Bừng Cháy, huống chi là những Bà Quê Mùa không biết đạo lý đó.

 Nếu nói về SỰ thì HỒNG DANH của Phật, Bồ tát có Vô-Lượng Công-Đức, kẽ niệm QUÁN ÂM tuy chưa hiểu đạo lý trên, nhưng nếu thường xuyên xưng Niệm thì Phiền não sẽ  giảm nhẹ dần, Tâm trí cũng lần sáng suốt khai ngộ rồi đi đến sự Nhiếp-Tâm dức trừ hẳn, cái lỗi của vị TU SĨ bài bác đó, đáng lẽ khi thấy hàng Phật tử đã thực hành được SỰ niệm, thì nói thêm phần LÝ để cho họ được mau tăng tiến, trái lại phủ nhận hẳn không cho NIỆM, Bảo phải nhiếp tâm tham Thiền mới có hiệu quả, đó là chấp Lý bỏ Sự, là lỗi Phá-kiến do niệm Phân-biệt môn phái.

Lại có tội hủy báng Kinh điển và Phật Bồ tát, lại có một Phật-tử trần thuật mình có đứa con yêu quý, trong lúc nó ĐAU NẶNG, Cha Mẹ tha thiết Chí Thành Niệm Danh Hiệu QUÁN THẾ ÂM, Cầu cho con An-Lành,  song Rốt cuộc đứa con vẫn CHẾT, từ đó cả hai vợ chồng nghe theo lời ông thầy Khuyên Bảo chỉ riêng lo tham Thiền, không còn tin tưởng nơi sự Tụng Kinh, Niệm Phật cùng danh hiệu Bồ-Tát nữa, thấy Phật-tử đó vì thương con, vì lầm nhận lời THẦY là đúng. Sanh niệm Cố chấp khó giải Tỏa, bút Giả không muốn nói nhiều, nhưng xin thuật lại một câu chuyện có thật, để khuyên những vị có trường hợp tương tự như trên.

 

Cách đây hơn 30 năm, nhân dịp xem một Nguyệt San Phật Giáo, dường như là tập VIÊN ÂM, bút Giả còn nhớ có một vị Phật-tử tự trần thuật lại việc mình đại khái như sau :

 

Do cơn SẢN  nặng bị mệt lã,  kể chắc khó sống, Bà Chí thành thầm niệm QUÁN ÂM, trong cơn mơ màng Bà thấy một vị đội mão mặc áo toàn trắng, đẹp như TIÊN NGA, bưng chậu LAN đi đến, NGỬI được mùi hương Thanh nhẹ của Hoa lan, Bà khỏe lần.

Kế đó, vị Nữ bưng ly nước bảo uống bà Thưa:  Vì con mới sanh Bác-sĩ Hoàng Mộng Lương không cho uống nước lã,  vị ấy bảo cứ uống rồi  sẽ LÀNH BỆNH, sau khi uống ly nước, bà cảm thấy như tăng thêm sức lực, tinh thần sáng tỉnh, liền Giật mình thức dậy biết Chắc đó là đức QUÁN THẾ ÂM, nhưng đứa con mới sanh cũng đang đau, Bà lại Niệm Danh Hiệu Bồ-tát, Cầu cho nó mau mạnh khỏe, lần này cũng thấy vị Nữ đến không nói chi cả, bồng đứa bé quay mình bước đi, nghe một tiếng con nít khóc thét lên, Bà tỉnh giấc xem lại thì đứa con ĐÃ CHẾT.

Sau khi ra nhà Bảo-sanh, bà đến Chùa hỏi Nguyên-nhân tại sao niệm Bồ-tát không Linh, vị sư Cụ là Viện Chủ đáp:  Chẳng phải không Linh Ứng vì nếu thế thì tại sao lần trước bà Niệm Bồ-Tát lại cứu cho MAU lành bệnh, nên biết chư Phật Bồ-tát đối với chúng sanh như CHA MẸ,  thương nghĩ lo sự an toàn cho con, điều nào con muốn nếu xét thấy được thì CHO, như thấy có hại tất không hứa KHẢ.

Có lẽ đứa bé đó là OAN GIA TRÁI CHỦ của bà đầu thai vào để BÁO OÁN. Bồ-Tát muốn cứu độ cho Bà khỏi khổ về sau,  nên mới bắt đi. Đây là một truyện nói về PHÁ KIẾN, lời nói của vị SƯ CỤ là đúng, lời ông THẦY Vợ Chồng Phật-tử kia là sai lầm, những khía cạnh về lỗi phá kiến rất nhiều, không thể kể hết ra đây được.




The Forty-Two Hands

With the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA

Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976

Translated into Vietnamese by
The late Dharma Master THÍCH THIỀN-TÂM


42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp




Do cố hòa thượng TUYÊN-HÓA , đã dùng “KỆ-TỤNG” giảng giải bằng TRUNG-VĂN.
TỶ KHƯU-NI HENG YIN  đã dịch ra ANH-VĂN.
Do cố hòa thượng THIỀN-TÂM đã dịch ra VIỆT-VĂN, trong KINH QUÁN ÂM ĐẠI-BI TÂM ĐÀ-RA-NI.


A VERSE IN PRAISE

of the Bodhisattva Who Regards the World’s Sounds



When hands and eyes that pierce the heavens and the great Dharani,
Shake the entire universe of three thousand worlds,
Those with and without affinities alike are gathered in taught,
As the universal compassion crosses over all in Jambudvipa.


NAMO THE VAST, GREAT, PERFECT, FULL, UNIMPEDED, GREAT COMPASSION HEART DHARANI OF THE THOUSAND-HANDED, THOUSAND-EYED BODHISATTVA WHO REGARDS THE WORLD’S SOUNDS






KỆ “XƯNG TÁN” BỒ-TÁT QUÁN-THẾ-ÂM
của hòa thượng TUYÊN HÓA




Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
Chấn động tam thiên thế giới thì
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm phù đề





Nam-mô Thiên-Thủ Thiên-Nhãn Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Quảng-Ðại Viên-Mãn
Vô Ngại Ðại-Bi Tâm Ðà-Ra-Ni



COMMENTARY :


Concerning the Great Compassion Mantra and the Forty-two Hands and Eyes, someone asked, “How did the Bodhisattva Who  Regards the  World’s Sounds get a thousand hands and eyes ?”

The  Bodhisattva has great awesome virtue and spiritual penetrations. His thousand eyes came from cultivation of the Great Compassion Dharma, which obtains the forty-two Hands. Cultivating them succeed he thereby gained a thousand hands and eyes. Which he looks to see what trouble people have and pull out of suffering. Cultivating the Forty-two Hands and Eyes perfection, he became complete with a thousand Hands and Eyes.


No matter who you are, if you meet the Great Compassion Dharma and cultivate the Forty-two Hands and Eyes will obtain a thousand hands and eyes, just like the Bodhisattva.


Dharmas of seeking refers to the Forty-two Hands and Eyes mention above. There are  actually more then thousand, but we are just mentioning them in general.

 

Liên quan đến Chú Đại Bi và Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn Ấn Pháp, có người hỏi: “Làm thế nào mà Bồ Tát Quán Thế Âm có được ngàn Tay ngàn Mắt?”

 

Hòa Thượng Tuyên Hóa trả lời rằng: “Vị Bồ tát đó có đại Uy Đức và Thần Thông không thể nghĩ bàn được . Ngàn Tay ngàn Mắt của Ngài là do trì Chú Đại Bi và 42 Thủ Nhãn Ấn Pháp. Khi thành tựu PHÁP nầy, thì có được ngàn Tay ngàn Mắt.  Ngàn Mắt để Quán xem sự khổ nạn của chúng sanh và ngàn Tay để cứu độ họ mau thoát khỏi mọi khổ đau. Tu viên mãn Bốn mươi hai Tay Mắt, thì sẽ thành tựu ngàn Tay ngàn Mắt.

 

BẤT LUẬN QUÝ VỊ LÀ AI, nếu tu theo Pháp Đại Bi và 42 Tay Mắt của Bồ Tát Quán Thế Âm trong KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI, thì sẽ có được NGÀN TAY NGÀN MẮT giống như BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM vậy”.

 

Những việc có thể mong cầu, được đề cập trong 42 Tay Mắt ở trên, thật ra có hơn ngàn việc, như ở đây chỉ nói ít phần mà thôi.



Ba mươi tám (38) năm về trước (1936), Luân tôi được bản in lẻ Kinh Lăng Nghiêm Chú Sớ này, được điều chưa từng có, giờ giờ khắc khắc nghiên cứu, thấy được cảnh giới vi mật, nên thường đem theo bên mình, chưa từng rời khỏi.



LĂNG NGHIÊM CHÚ SỚ LƯỢC GIẢNG

浙水慈雲寺顯密教觀沙門續法集

Triết thủy Từ Vân Tự Hiển Mật Giáo Quán Sa Môn Tục Pháp Tập


Giảng thuật: Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Hoa Kỳ



 



The Forty-Two Hands
42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp


1.        The As-You-Will Pearl Hand and Eye
           
Như-Ý-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp

2.       The Lariat Hand and Eye
           
Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp

3.       The Jeweled Bowl Hand and Eye
           
Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp

4.      The Jeweled Sword Hand and Eye
          
Bảo-Kiếm Thủ Nhãn Ấn Pháp

5.       The Vajra Hand and Eye
          
Bạt-Chiết-La Thủ Nhãn Ấn Pháp

6.      The Vajra Pestle Hand and Eye
         
Kim-Cang-Xử Thủ Nhãn Ấn Pháp

7.      The Bestowing Fearlessness Hand and Eye
         
Thí-Vô-Úy Thủ Nhãn Ấn Pháp

8.      The Sun Essence Mani Hand and Eye
         
Nhật-Tinh Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp

9.      The Moon Essence Mani Hand and Eye
         
Nguyệt-Tinh Ma-Ni ThủNhãn Ấn Pháp

10.   The Jeweled Bow Hand and Eye
         
Bảo-Cung Thủ Nhãn Ấn Pháp

11.     The Jeweled arrow Hand and Eye
          
Bảo-Tiễn Thủ Bảo-Tiễn Thủ Nhãn Ấn Pháp

12.    The Willow Branch Hand and Eye
         
Dương-Chi Thủ Nhãn Ấn Pháp

13.    The White Whisk Hand and Eye
         
Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp
 
14.   The hu Bottle Hand and Eye
         
Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp
       
15.   The Shield Hand and Eye
          
Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp

16.   The Ax Hand and Eye
         
Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp

http://www.drbachinese.org/online_reading/sf_others/DaBeiJou/page64.htm



64. Tất Ra Tăng A Mục Khê Da 



 Hóa hiện Dược Vương đại bồ tát

Trừ “ÔN” diệt “DỊCH” cứu hằng sa

Phổ lịnh hữu tình ly tật khổ

Cam lộ biến sái hàm thức nha




NAM-MÔ DƯỢC-VƯƠNG BỒ-TÁT (3 LẦN)

MA-HA-TÁT (1 LẦN) 


Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Mười Sáu

 (1 LẦN)

 

Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]

Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.

  (108 LẦN)




[

ÔN là bệnh truyền nhiễm.

DỊCH là bệnh lây cho mọi người.

CHO NÊN, NẾU QÚI VỊ MUỐN DIỆT TRỪ BỊNH ÔN DỊCH THÌ PHẢI TRÌ TỤNG

“Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp”

]


17.   The Jade Ring Hand and Eye
        
Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp
   
18.   The White Lotus Hand and Eye
         
Bạch-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
        
19.   The Blue Lotus Hand and Eye
         
Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
     
20.   The Jeweled Mirror  Hand and Eye
          
Bảo-Kính Thủ Nhãn Ấn Pháp
                           
21.   The Purple Lotus Hand and Eye
        
Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp

22.   The Jewel-chest Hand and Eye
         
Bảo-Khiếp Thủ Nhãn Ấn Pháp

23.   The Five-colored Cloud Hand and Eye
         
Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp

24.   The Kundi Hand and Eye
         
Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp
       
25.   The Red Lotus Hand and Eye
           
Hồng-Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
          
26.   The Jeweled Halberd Hand and Eye
         
Bảo-KíchThủ Nhãn Ấn Pháp
       
27.   The Jeweled Conch Hand and Eye
         
Bảo-LoaThủ Nhãn Ấn Pháp
 
28.  The Skull Bone Staff Hand and Eye
        
Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp

29.  The Recitation Beads Hand and Eye
       
 Sổ-ChâuThủ Nhãn Ấn Pháp

30.  The Jeweled Bell Hand and Eye
         
Bảo-ĐạcThủ Nhãn Ấn Pháp
       
31.  The Jeweled Seal Hand and Eye
         
Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp
       
32.   The Chu Shih Iron Hook Hand and Eye        
        
Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp

33.   The Tin Staff Hand and Eye
        
Tích-TrượngThủ Nhãn Ấn Pháp

34.   The Joined Palms Hand and Eye
         
Hiệp-Chưởng Thủ Nhãn Ấn Pháp

35.   The Transformation Buddha on the Palm Hand and Eye
         
Chưởng-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn Ấn Pháp

36.  The Transformation Palace Hand and Eye
        
Hóa-Cung-ĐiệnThủ Nhãn Ấn Pháp
   
37.   The Jeweled Sutra Hand and Eye
         
Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp
       
38.  The Non-retreating Gold Wheel Hand and Eye
        
Bất-Thối Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp

39.  The Transformation Buddha  Atop the Crown Hand and Eye
        
Đảnh-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp 

40.  The Grape Hand and Eye
        
Bồ-Đào Thủ Nhãn Ấn Pháp

41.  The Sweet Dew Hand and Eye
        
Cam-Lộ Thủ Nhãn Ấn Pháp

42.   The Uniting and Holding Thousand Arms Hand and Eye
         
Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp

 

NGHI THỨC



( PHÁT NGUYỆN TU THEO BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM)




Comments

Popular posts from this blog