24. The Kundi Hand and Eye

  
The Sutra says: “For birth in the Brahma heavens, use the Kundi Hand.”


The Mantra: Two la two la

The True Words: Nan. Wa dz la. Shr chywe lu. Ja syin ja.


The verse:


Those in the great Brahma heaven, pure and undefiled,
Experience wondrous bliss--their blessed reward is full.
Just maintain this Kundi Hand,
And you’ll be born there with a lifespan as long as that of a mountain.






  24) Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp



Kinh nói rằng: “Nếu muốn sanh lên cõi Phạm-Thiên, nên cầu nơi Tay cầm bình
                      Quân-Trì.”


Thần-chú rằng: Đà Ra Đà Ra [30]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, thế khê ra, rô tra hàm tra.



(OṂ VAJRA ŚEKHARA RUTA MAMTA. 
Án-- phạ nhựt-ra, thế khê ra, rô tra hàm tra.)



Kệ tụng:


Thanh tịnh vô nhiễm Đại Phạm Thiên
Thọ thắng diệu lạc phúc báo toàn
Đản năng trì thử quân trì thủ
Thân thân sinh bỉ thọ như sơn.

[

Cõi Trời SẮC GIỚI Đại Phạm Thiên, thanh tịnh vô nhiễm ly THAM dục.
Phước báo thù thắng diệu vô cùng, như còn khổ nạn vì HỎA TAI.
Nếu thường tu niệm QUÂN TRÌ THỦ.
Đời đời kiếp kiếp được trường thọ, không bị nạn khổ vì HỎA TAI.

]




ĐI PHM THIÊN cõi tri SC GII nên rt THANH TNH VÔ NHIM, không còn tình ái dc nhim na, đã lìa được 6 cõi tri DC GII, hưởng được đy đ phước báo, thù thng diu lc, như đây còn b  NN HA TAI THIÊU HOI, vì trong TÂM  còn nghĩ mình là T TI, mình là THANH TNH VÔ NHIM, nên còn có la SÂN trong TÂM.

Vì vy, CHIÊU CM LA BÊN NGOÀI ĐN ĐT CHÁY THIÊU HOI. Thy vy, B TÁT QUÁN TH ÂM thương sót, NG THÂN  thành ĐI PHM VƯƠNG vì h mà thuyết pháp.

KINH VĂN:

 Ðáng dùng thân Phạm vương để được độ thoát, liền hiện thân Phạm vương đến nói pháp độ họ.

Phạm vương chính là Ðại Phạm Thiên Vương, Hoàng đế của trời Ðại Phạm. Phạm có nghĩa là thanh tịnh. Vị ấy làm vua trên trời cảm thấy rất tự tại. Bồ Tát Quán Thế Âm cũng hiện thân Ðại Phạm Thiên Vương đến để nói pháp cho họ nghe.

(KINH PHÁP HOA-PHẨM PHỔ MÔN)



ĐẠI PHẠM THIÊN VƯƠNG THỈNH PHÁP GÌ TRÊN CUNG TRỜI  ĐẠI PHẠM ?



KINH VĂN:

Khi ấy Đại Phạm Thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay cung kính bạch với đức Quán Thế Âm bồ tát rằng: "Lành thay đại sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng Phật hội, nghe nhiều pháp yếu, nhiều môn đà ra ni, song chưa từng nghe nói chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni này. Cúi xin đại sĩ vì tôi, nói hình trạng tướng mạo của đà ra ni ấy. Tôi và đại chúng đều ưa thích muốn nghe".

Quán Thế Âm Bồ tát bảo Phạm vương:

"Ông vì phương tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên hỏi như thế, nay ông khéo nghe, tôi sẽ vì ông mà nói lược qua. Này Phạm vương! Những

1)     Tâm đại từ bi,
2)     Tâm bình đẳng,
3)     Tâm vô vi,
4)     Tâm chẳng nhiễm trước,
5)     Tâm không quán,
6)     Tâm cung kính,
7)     Tâm khiêm nhường,
8)     Tâm không tạp loạn,
9)     Tâm không chấp giữ,
10)   Tâm vô thượng Bồ Đề,

nên biết các thứ tâm này đều là tướng mạo của môn đà ra ni này. Vậy, ông nên y theo đó mà tu hành".

Phạm vương thưa: "Tôi và đại chúng hôm nay mới hân hạnh được biết tướng mạo của môn đà ra ni này, từ đây chúng tôi xin thọ trì chẳng dám lãng quên".



Lại nữa, KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ-RA-NI nói về THỂ, TƯỚNG và DỤNG như sau:


1.        Lấy “THẬT TƯỚNG” LÀM THỂ  CỦA CHÚ ĐẠI BI.

2.       Lấy 10 Tâm (Đại Từ Bi…Vô Thượng Bồ Đề) LÀM HÌNH TRẠNG TƯỚNG MẠO CỦA CHÚ ĐẠI BI.

3.       Lấy 42 THỦ NHÃN ẤN PHÁP LÀM DIỆU DỤNG CỦA CHÚ ĐẠI BI.


KINH VĂN:

Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền định vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền.

Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụtam tai, ác kiếp  [1] không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại.

Nên biết người ấy chính là tạng Dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi mười phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng!"

Đức Phật bảo Phạm vương:

- Này thiện nam tử! Nếu kẻ nào chán sự khổ ở thế gian muốn cầu thuốc trường sanh, thì nên an trụ nơi chỗ vắng lặng sạch sẽ, kiết giới thanh tịnh và thật hành một trong các phương pháp như sau: Hoặc tụng chú vào trong áo mà mặc, hoặc tụng chú vào nước uống, thức ăn, chất thơm, dược phẩm mà dùng. Nên nhớ mỗi thứ đều tụng 108 biến, tất sẽ được sống lâu. Nếu có thể kiết giới đúng pháp, và y như pháp mà thọ trì, thì mọi việc đều thành tựu.

Tam tai ác kiếp [1]: Tam tai là hỏa tai, thủy tai, phong tai. Ác kiếp có nghĩa là kiếp khổ sở, độc dữ. Khi thế giới này sắp tiêu tan, hỏa tai làm hoại từ địa ngục đến cõi sơ thiền, thủy tai làm hoại đến cõi nhị thiền, phong tai làm hoại đến cõi tam thiền.


Lại nữa, dù cho hỏa tai, thủy tai hoặc phong tai có phát sanh đi nữa, thì nội viện ở trên cõi trời Đâu Suất của Dục giới cũng vẫn tồn tại, chẳng bị ảnh hưởng mảy may nào. Tại sao vậy? Bởi đó là cõi Tịnh độ của chư Phật và Bồ Tát.



( Xin xem Nguyên Nhân Gì Phát Sinh Tam Tai ?
của Hòa Thượng Tuyên Hóa sau cùng của thủ nhãn nầy)






Khi thoát  đuợc tai nạn lửa, thì bồ tát dạy tất cả thiên chúng PHÁT TÂM  thành A-LA-HÁN, THÀNH PHẬT, THÌ MỚI THẬT SỰ THOÁT ĐƯỢC HỎA TAI. Đây là bổn nguyện của bồ tát, cũng là bổn nguyện của 10 phương chư phật xuất hiện ra nơi đời, để dạy cho tất cả chúng sanh THÀNH PHẬT như mình không khác. Tuy dùng vô-lượng PHƯƠNG TIỆN, THÍ-DỤ…để dẫn tới PHẬT THỪA mà thôi.


(KINH PHÁP HOA)



Tóm lại, nếu “QÚY VỊ” TU THEO  “QUÂN-TRÌ THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì không còn TÁNH HAY NÓNG GIẬN, không còn bị nạn LỬA THIÊU ĐỐT, không còn THAM, SÂN, SI.. nên không còn bị TAM TAI ÁC KIẾP…cũng như người niệm “NAM-MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT” trong PHẨM PHỔ MÔN vậy.

Lại có khả năng sanh về cõi TRỜI PHẠM THIÊN, dạy chúng PHẠM THIÊN TRÌ “QUÂN-TRÌ THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, ĐỂ TRÁNH ĐƯỢC NẠN LỬA VÀ TUỖI THỌ ĐƯỌC DÀI LÂU NHƯ NÚI DIỆU CAO.

Sau cùng mới khuyên họ PHÁT TÂM TU THÀNH A-LA-HÁN, THÀNH PHẬT THÌ MỚI THẬT SỰ KHÔNG CÒN BỊ TAM TAI ÁC KIẾP NỮA.


Kệ tụng:


Thanh tịnh vô nhiễm Đại Phạm Thiên
Thọ thắng diệu lạc phúc báo toàn
Đản năng trì thử quân trì thủ
Thân thân sinh bỉ thọ như sơn.

   Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp
 Thứ Hai mươi Bốn

    Đà Ra Đà Ra [30]
  Án-- phạ nhựt-ra, thế khê ra, rô tra hàm tra.




30. Đà la đà la

Tiếng Phạn rất khó hiểu. Ngay cả những ai đã học tiếng Phạn thông thạo rồi cũng khó có thể hiểu được mật chú và giảng giải rõ ràng được. Tôi chỉ nhờ hiểu một chút ít thần chú Đại Bi mà thôi.

Đà là đà la là Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp. Trong tịnh bình này chứa nước cam lồ. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng cành dương liễu rưới nước cam lồ lên khắp chúng sanh trong sáu đường. Bất luận ai gặp nạn khổ hay bệnh tật gì, nếu được Bồ – tát Quán Thế Âm rưới nước cam lồ thì đều giải thoát khỏi tai nạn ấy.


Đà la đà la. Hán dịch là “Năng tổng trì ấn”, là tâm lượng của toàn chúng sinh. Chính là Bồ – tát Quán Thế Âm dùng Cam lồ thủ nhãn ấn pháp, Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp và Dương chi thủ nhãn ấn pháp – tất cả ba ấn pháp ấy để rưới nước cam lồ lên toàn thể chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi tam đồ lục đạo.


ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)

30) Đà Ra Đà Ra

 

Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì tụng câu chú Đà Ra Đà Ra, thì Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM sẽ  “XUẤT HIỆN”  THÂN TƯỚNG TRƯỢNG PHU, giúp cho Qúi vị “TỔNG-TRÌ CÁC CHÚ-ẤN”, trong khi trì tụng “QUÂN-TRÌ THỦ NHÃN ẤN PHÁP”.


 

NGÀI QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT

( HIỆN THÂN TƯỚNG TRƯỢNG PHU )

 

( Thường TRÌ QUÂN-TRÌ THỦ NHÃN ẤN PHÁP, giúp cho Qúi vị “TỔNG-TRÌ CÁC CHÚ-ẤN, trong khi trì tụng “QUÂN-TRÌ THỦ NHÃN ẤN PHÁP”.

 Và ngược lại nếu “QÚI VỊ” Thường TRÌ QUÂN-TRÌ THỦ NHÃN ẤN PHÁP, thì Qúi vị là “HÓA THÂN” của Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT,  nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.   )


Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi Qúi vị Trì tụng “QUÂN-TRÌ THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM sẽ “XUẤT HIỆN” với “THÂN TƯỚNG ĐẠI TRƯỢNG PHU” rất UY NGHIÊM KỲ ĐẶC, nhưng lúc nào cũng giữ theo “QUY CỦ”, nên VƯỢT QUA TẤT CẢ KHỔ NẠN.

 

THƯỜNG DÙNG “ĐỨC” ĐỂ PHỤC NGƯỜI, TUY BỀ NGOÀI “RẤT NGHIÊN KHẮC”, MÀ TRONG “TÂM” THÌ LẠI THƯỜNG “KHIÊM TỐN ÔN HÒA”.

 

Kệ tụng :

 

Hiện đại trượng phu thân kỳ đặc

Pháp tướng trang nghiêm ly chư quá

Dĩ đức cảm nhân tâm thành phục

Vọng chi nghiễm nhiên tức ôn hòa

 

KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN

 

KỆ TỤNG

HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng




Nguyên Nhân Gì Phát Sinh Tam Tai?
Hòa Thượng Tuyên Hóa


Tam tai gồm có hai loại là đại tam tai và tiểu tam tai.
Đại tam tai là ba tai họa lớn về lửa, nước gió.
Tiểu tam tai là ba tai họa nhỏ về chiến tranh, đói kém và bệnh dịch.

Đó cũng tức là tai kiếp. Trong một đại kiếp thì có bốn trung kiếp, gồm thành, trụ, hoại, và không. Mỗi trung kiếp lại có hai mươi tiểu kiếp. Vào cuối thời kỳ giảm kiếp của mỗi trụ kiếp thì phát sanh hiện tượng tiểu tam tai. Còn đại tam tai thì phát sanh trong thời kỳ hoại kiếp của mỗi đại kiếp. Bây giờ chúng ta hãy bàn đến nguyên nhân phát sanh đại tam tai.

Bởi con người có tâm tham nên mới phát sanh ra thủy tai; con người có tâm sân hận mới sanh ra hỏa tai; con người có tâm ngu si mới sanh ra phong tai. Cho nên tam tai đều là do tam độc mà sanh khởi. Trong tâm chúng ta, ai ai cũng có đầy đủ cả ba độc - tham, sân, si. Ba thứ độc trong tâm này mỗi ngày một lớn rộng ra và khi đến một mức độ nhất định, sẽ hình thành đại tai kiếp.

Tam tai phát sanh cũng có thứ lớp, bởi con người có thất tình - hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục (tức là vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, muốn). Bảy loại tình cảm này dần dần phát triển rộng ra. Và mỗi một loại tình sẽ phát sanh một lần tai họa, cho nên mới hình thành bảy lần hỏa tai. Sau bảy lần hỏa tai thì sẽ phát sanh một lần thủy tai. Trong bảy loại tình cảm, mỗi loại lại chia ra làm bảy, cho nên mỗi cái “thất hỏa nhất thủy” (bảy trận lửa cháy, một trận nước lụt) này sẽ theo thứ tự mà xảy ra bảy lần. Rồi lại xảy ra bảy lần hỏa tai khác. Đến lúc sau cùng thì phong tai phát sanh và hủy diệt toàn cả thế giới.

Khi hỏa tai phát sanh, ngọn lửa có thể thiêu đốt đến tầng trời Sơ thiền của Sắc giới (tức gồm các cõi Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Đại Phạm Thiên).

Lúc thủy tai phát sanh thì nước có thể ngập đến tầng trời Nhị thiền của Sắc giới (tức gồm các cõi Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang và Trời Quang Âm). Khi phong tai phát sanh thì gió có thể thổi đến các tầng trời Tam thiền của Sắc giới (tức là các cõi Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên và Biến Tịnh Thiên). Cho nên nói:

Sáu cõi trời Dục có năm suy,
Cõi Trời Tam Thiền có phong tai,
Dẫu như tu đến Phi Phi Tưởng,
Không bằng về Tây rồi trở lại.



Phong tai từ đâu tới? Nó đến từ sự tổng kết của bảy thứ tình cảm - hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Phong tai thì tượng trưng cho si độc. Khi con người còn ngu si, thì cái gì cũng quên bẵng. Do đó, khi đại phong phát khởi, mọi thứ từ cõi trời Tam Thiền đến tận dưới địa ngục đều không còn, tất cả đều bị quét sạch.

Tuy nhiên, dù cho hỏa tai, thủy tai hoặc phong tai có phát sanh đi nữa, thì nội viện ở trên cõi trời Đâu Suất của Dục giới cũng vẫn tồn tại, chẳng bị ảnh hưởng mảy may nào. Tại sao vậy? Bởi đó là cõi Tịnh độ của chư Phật và Bồ Tát. Hiện nay, Bồ Tát Di Lặc đang ngự tại nội viện trên cung trời Đâu Suất, chờ đến trụ kiếp thứ mười trong thời kỳ Hiền Kiếp, Ngài mới giáng lâm thế giới Ta Bà để giáo hóa chúng sanh (hiện tại chúng ta đang ở vào thời Giảm Kiếp của Trụ Kiếp thứ chín).

Tham sân si hình thành biết bao loại ác khí, giống như những hạt nguyên tử trong bom nguyên tử; nguyên tử là thứ vật chất đáng sợ, nhưng thứ nguyên tử phát sanh từ lửa Tam muội của chúng ta thì lại càng đáng sợ hơn nữa. Loại nguyên tử này không phải đến từ bên ngoài, mà vốn đã có sẵn trong tự tánh của chúng ta. Chân hỏa Tam muội trong tự tánh của chúng ta vốn là thuần dương, nhưng vì bị chúng ta lạm dụng nên biến thành lửa dục vọng.

Trong thân người có tam tiêu hỏa (ba tầng hỏa khí) là thượng tiêu hỏa, trung tiêu hỏa và hạ tiêu hỏa. Tam tiêu hỏa này có thể hình thành hỏa tai, hoặc biến thành bom nguyên tử để hủy diệt tất cả mọi thứ. Bởi bên trong chúng ta có bom nguyên tử, cho nên bên ngoài mới có bom nguyên tử. Chúng được hình thành bởi có sự tương ứng và tương tục với nhau. Hiện nay trên thế giới xảy ra nhiều vấn đề cũng đều là từ điểm này.


Trong tâm chúng ta có cái gì thì bên ngoài có cái đó. Nếu trong tâm chúng ta không có chiến tranh thì bên ngoài cũng sẽ không có chiến tranh. Cho nên nói “Tất cả do tâm tạo” là vậy!

Lời bàn:

“Trong tâm chúng ta có cái gì thì bên ngoài có cái đó”. Nếu ta TỤNG KINH, TRÌ CHÚ, NIỆM PHẬT, LÀM THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC… hồi hướng cho người thân đã mất thì họ hưởng được qủa lành an vui giải thoát. 

Nếu ta làm những VIỆC KHÁC VỚI THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC hồi hướng cho người thân đã mất thì họ cũng hưởng được NHỮNG GÌ KHÔNG PHẢI LÀ THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC, nên không biết khi nào họ mới được an vui giải thoát đây? 

Cho nên nói “Tất cả do tâm tạo” là vậy!

Giảng ngày 29 tháng 7 năm 1985

Chú thích: Tam tiêu: Ba tầng hỏa khí, tức là ba ngăn trống trong thân mình: Thượng tiêu (ngăn trên - nơi chứa phổi, tim, gan); Trung tiêu (ngăn giữa - nơi chứa bao tử, lá lách, ruột non); Hạ tiêu (ngăn dưới - nơi chứa bang quang, ruột già).

Comments

Popular posts from this blog