Ngày Rằm Tháng 4 Âm Lịch , LẦN THỨ 2648
PHẬT LỊCH 2568
( Tức Ngày 22/5/2024, DƯƠNG LỊCH )
8 THÁNG 4
hoặc 15 THÁNG 4 ÂM LỊCH
“Định nhật”: Theo cách tính thông thường trong lịch pháp phương Tây (Ấn Độ), tính toán trong một tháng thiếu, [thì ngày thông thường trong một tháng đủ] sẽ ứng hợp với ngày nào [trong tháng thiếu ấy]. Nếu tháng thiếu thuộc vào bạch nguyệt, ngày Mười Lăm tháng ấy sẽ thuộc vào hắc nguyệt, chẳng nên dùng. Lại nữa, lịch pháp tính chung chu kỳ vận chuyển của mặt trời và mặt trăng để tính toán ngày mồng Một mỗi tháng, đều là gồm một tháng thiếu, một tháng đủ. Do mặt trời và mặt trăng cùng vận hành, lại có sớm hay trễ, hoặc có lúc trùng nhau, có lúc chẳng trùng. Do vậy, ngày mồng Một sẽ được ấn định trước hay sau một ngày, ngày Rằm sẽ thuộc ngày mười bốn hay ngày mười sáu [trong tháng đó]. Đại để, ngày Rằm trong tháng nhằm lúc trăng tròn thì gọi là ngày Mười Lăm thuộc bạch nguyệt, khi mặt trăng vừa đúng một nửa như lúc thượng huyền thì cũng gọi là ngày mồng Tám. Chỉ dùng cách tính như vậy để suy ra “định nhật”.
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Ẩn tu thôi mặc dở hay đời
Chỉ ước lâm chung dự biết thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.
KINH PHẬT THUYẾT PHẬT DANH
Nguyên Ngụy, Bắc Thiên Trúc,
Tam Tạng Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi dịch ra Hoa văn
Việt dịch: HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM
TÁN
Mười phương các Phật độ
Ba kiếp đấng Năng Nhơn
Đại bi vang tiếng cứu hàm linh
Diễn nói Phật hồng danh
Đêm dài thăm thẳm thức mê tình
Ba nghiệp gieo kính thành
Tướng tốt nguyện nghiêm thân.
( Thập phương thế giới
Tam thế năng Nhơn
Bi thinh tế vật diễn hồng danh
Trường dạ giác mê tình
Tam nghiệp đầu thành
Tướng hảo nguyện nghiêm thân.)
Nam-mô Thập phương Phật.
Nam-mô Thập phương Pháp.
Nam-mô Thập phương Tăng.
Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam-mô A Di Ðà Phật.
Nam-mô Ðương Lai Di Lặc Phật.
Nam-mô Phật Danh Kinh Trung Nhứt Thiết Chư Phật.
Nam-mô Kinh Phật Thuyết Phật Danh.
Nam-mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam-mô Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam-mô Ðại Thế Chí Bồ Tát
Nam-mô Thập Phương Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam-mô Chư Phật Đệ Tử Nhứt Thiết Ðại Thanh Văn Tăng.
Nam-mô Hộ Pháp, Thiên Long Thiện Thần Tiên Chúng.
Nam-mô Xá Lợi Phất Chư Ðại Thanh Văn.
TÁN
Mười phương các Phật độ
Ba kiếp đấng Năng Nhơn
Đại bi vang tiếng cứu hàm linh
Diễn nói Phật hồng danh
Đêm dài thăm thẳm thức mê tình
Ba nghiệp gieo kính thành
Tướng tốt nguyện nghiêm thân.
( Thập phương thế giới
Tam thế năng Nhơn
Bi thinh tế vật diễn hồng danh
Trường dạ giác mê tình
Tam nghiệp đầu thành
Tướng hảo nguyện nghiêm thân.)
Nam-mô Thập phương Phật.
Nam-mô Thập phương Pháp.
Nam-mô Thập phương Tăng.
Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam-mô A Di Ðà Phật.
Nam-mô Ðương Lai Di Lặc Phật.
Nam-mô Phật Danh Kinh Trung Nhứt Thiết Chư Phật.
Nam-mô Kinh Phật Thuyết Phật Danh.
Nam-mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam-mô Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam-mô Ðại Thế Chí Bồ Tát
Nam-mô Thập Phương Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam-mô Chư Phật Đệ Tử Nhứt Thiết Ðại Thanh Văn Tăng.
Nam-mô Hộ Pháp, Thiên Long Thiện Thần Tiên Chúng.
Nam-mô Xá Lợi Phất Chư Ðại Thanh Văn.
Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !
Bi, Trí đôi đường phải suốt thông
Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn
Còn rành nhân thuật mới thành công !
KINH ĐẠI THÔNG PHƯƠNG QUẢNG SÁM HỐI
DIỆT TỘI TRANG NGHIÊM THÀNH PHẬT
QUYỂN THƯỢNG
Danh Hiệu Chư Phật Đời Quá Khứ
Danh Hiệu Chư Phật Đời Hiện Tại
Danh Hiệu Mười Hai Phần Kinh và Các Ba La Mật
Danh Hiệu Chư Bồ Tát Ma Ha Tát
Ẩn tu quyết chí gạt trần
tình
Mặc nỗi khen chê lẫn bất bình
Sức yếu phải cam phần kém yếu
Tình đời ví nhẹ đạo tâm sinh.
THẬP NHỊ DANH NHƯ LAI LỄ SÁM DIỆT TỘI
Thập Nhị Danh Lễ Sám-Kinh Tụng Của Thầy AUDIO
Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu
Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm
LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.
Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi
Trước mất Lăng Nghiêm pháp diệu kỳ
Lần lượt các kinh đều diệt hết
Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.
(VSNISA JVALA SURAM GAMA MAHA SITATA PATTRAM)
Ẩn tu ý Tổ cảm thông tri
Bi trí tuỳ cơ độ Mạt-thì
Đâu phải chấp đua như thế tục
Mà riêng khen Tịnh đạo huyền vi.
HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM
ẤT SỬU 1925 -
NHÂM THÂN 1992
(TĂNG LẠP 48 - THẾ THỌ 68)
SÁU TÁM lắm gian nan,
Nhơn quả chớ than van.
Thấy NINH thời ĐẠI đến,
Gặp PHÚ ắt bình AN.
LIÊN HƯƠNG thơm sực nức,
Còn chút nghiệp phải
mang.
NGỌT CHUA HAI BỐN CHẲN,
(1968 - 1992 = 24 NĂM)
THÂN xuất đáo LIÊN
BANG.
QUY KỲ VỊNH
Tam thử, Mão thời quy,
Lai, khứ thiểu nhơn tri.
Lục bát trần duyên mãn,
Thân xuất đáo Tây kỳ.
(Khánh đản 2536, 15-4 Âl – Nhâm
Thân)
LỜI SAU CÙNG
Bút giả cố gắng hoàn tất quyển cuối Mấy Điệu Sen Thanh nầy, giữa lúc sức khỏe suy kém, thêm bị sự khuấy rối lấn bức của cả ngoài lẫn trong rình rập bao vây. Nhớ lời Phật dạy trong kinh Pháp Hoa: “Vào lúc kiếp trược rối loạn, chúng sanh cấu nhiễm nặng nề, đầy niệm tham, sân, si, ganh ghét, thành tựu các căn chẳng lành”. (Kiếp trược loạn thời, chúng sanh cấu trọng, tham si tật đố, thành tựu chư bất thiện căn).
Lại xem trong Đà Ra Ni Tạp Tập thấy một đoạn, xin trích dịch nguyên văn như sau:
“Bạch đức Thế Tôn! Con là Thiện Danh Xưng Bồ Tát, từ cõi đức Phật Tịnh Nguyệt Âm Vương ở phương Bắc, nay đến thế giới Ta Bà. Con thấy nơi cõi nầy vào thời mạt, khi Phật pháp sắp muốn diệt, nhơn sanh phần nhiều tạo ác, tham đắm danh lợi, thị phi bôi xấu giết hại lẫn nhau. Giữa vua tôi, chủ tớ, cha con, thầy trò, chồng vợ, bè bạn, anh em, không còn đạo nghĩa, nước ngũ trược sôi trào, lửa tam tai bừng cháy. Các việc vừa nói, đều do chúng sanh kiếp trước chấp chứa nhiều tội ác, không tu đức lành, đời hiện tại mới bị cộng nghiệp sống trong hoàn cảnh như thế. Vào thời gian đó, nhơn loại tuy bề ngoài mang thân người, nhưng trong tâm ngu si độc dữ chẳng khác súc sanh ác quỉ. Thương thay cho thời mạt!
Trong năm ngàn người, may ra chỉ được vài kẻ lương thiện biết lo tu hành. Nay xin đức Thế Tôn hứa nhận cho con nói môn thần chú Vân Nhã Mật Tu, để chúng sanh đời sau được dứt trừ gốc tội nhơ, thân tâm trở nên trong sạch, xa lìa ách nạn”.
Sau khi được Phật chấp thuận, Bồ Tát liền thuyết chú rằng:
Ophú Ophú para téna Jũgu jũgu para téna yujnamid yujnamid para téna Osuto. Chi paio Kụjnãto Yamidto. Kúrato. Thopato. Svaha.
”Bạch đức Thế Tôn! Đại thần chú nầy như chiếc lọng lớn che trùm tất cả. Lại cũng như cơn mưa to thấm nhuần tất cả, như cầu thuyền nổi thông chở tất cả. Chúng sanh hàng đạo tục đời sau, đều nương nhờ Đà ra ni đây mà nẩy mầm mộng lành, thắm nhuần mùi pháp vị. Công năng của đại thần chú nầy, hay cứu vớt muôn hạng căn cơ sai khác, đưa về cảnh giới nhứt không, khiến cho họ sớm chúng tam thừa thánh quả…”
Qua mấy đoạn văn trên, lời đức Phật dạy và Bồ Tát Thiện Danh Xưng trần thuật, dường như đã ứng hiện vào thời buổi nầy. Riêng trong nhà Phật còn có những cảnh:
Giường lau đèn tối tăng vào định
Trăng lạnh cành thông bóng hạc về!
(Mâu tháp đăng hôn tăng nhập định
Tùng chi nguyệt lãnh hạt phi hoàn!)
Hoặc
Chợt sang trúc viện cùng tăng luận
Trộm được phù sinh nửa buổi nhàn!
(Hối qua trúc viện phùng tăng thoại
Du đắc phù sinh bán nhựt nhàn!)
Lúc còn ở Phật học viện Huệ Nghiêm, ưong cuộc mạn đàm với một bậc tiền bối, vị ấy có nói với bút giả mấy lời vừa có tánh cách bông đùa vừa ngụ ý than thở như sau: “Hiện nay trong cửa đạo có nhiều việc phức tạp, trừ phi Bồ Tát ra đời chấn hưng lại, còn phàm Tăng như chúng ta không làm sao điều chỉnh nổi. Hoàn cảnh thật giống như hai câu thi của một danh nhơn thời xưa:
“Ca sa vị trước hềm đa sự.
Trước bãi ca sa sự cánh đa!”
(Chưa khoác ca sa chán việc nhiều.
Khoác rồi thêm việc biết bao nhiêu!)
Nhưng có điều không đúng với nguyên ý của vị danh nhơn kia, đây chẳng phải việc đạo mà lại là việc khác! Chẳng những riêng đạo Phật, mà tất cả các tôn giáo đều có tình trạng tương tợ như thế. Đây đều do lòng người, thật quả là thời đạo đức suy mạt!’
Trong đạo đã như thế, ngoài đời lại còn biến loạn hơn, từ quốc gia cho đến khắp thế giới cảnh bạo ác ngày thêm tăng mạnh, con người hầu hết sống trong vòng lường gạt, sa đọa, tranh đua, giết hại lẫn nhau. Cuộc diện kéo dài đến hiện tại, “buổi tận thế” hay “cơ tận diệt” mà các tôn giáo khác mô tả, đã có phần lấp ló lộ hình. Tuy biết đó là cộng nghiệp của nhơn sanh, nhưng khi nhìn thấy nỗi khổ đau khắp đồng loại, trải nhiều cơn biến đồi dập dồn, những kẻ hữu tâm cũng sanh niềm hoài cảm! Họ không biết tương lai sẽ đi về đâu, chán nản cho mình cùng người trong kiếp sống thừa cảnh tạm! Thỉnh thoảng nghe vài nhơn sĩ cao niên đã mượn lời của Nguyễn Du mà thầm lén than thở như sau:
Kể từ gây cuộc binh đao
Đống xương vô định đã cao bằng đầu!
Hay là:
Chân trời mệt bể linh đinh
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào?
Và cho đến như:
… Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi
Đã không biết sống là vui
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
Trong hoàn cảnh ấy, muốn thoát mối nguy tương hoại tương tàn, nhơn loại phải hướng về đạo đức. Theo lời Phật dạy, ngày sau do chúng sanh buông lung theo nghiệp sát, đạo, dâm, vọng nên sẽ có Tam tai ác kiếp là: chiến tranh tàn phá, tật bịnh lan tràn và đói rách nghèo khó nổi lên. Kẻ nào muốn tiêu giảm nỗi thống khổ, phải giữ chắc bốn giới: không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, dối gạt, tùy sức mình mà gắng làm các điều lành. Những người ấy sẽ được thiên thần ủng hộ, khiến cho nạn khỏi tai qua. Nếu tiến thêm, muốn tìm nẻo thoát ly, phải tụng kinh hoặc trì chú và chí tâm niệm hồng danh đức A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc.
Căn cứ theo luật nhân quả, mọi sự khổ vui đều do nghiệp lành dữ và bởi vô minh gây tạo. Trong cảnh nóng bức của nhà lửa tam giới, phải bền lòng an nhẫn, phải thiết thật phụng hành đúng như lời Phật dạy Đùng nên mãi hờn trách thở than, vì kết cuộc sẽ hóa ra vô ích. Trên đây là lời phụng khuyến, là đường lối thoát ly duy nhứt, mà những kẻ học đạo muốn nhắn nhủ với đồng nhơn.
THÍCH VÔ NHẤT
(Lấy ý câu: Nhất sự vô thành thân tiệm lão)
(VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
TƯỞNG NIỆM CỐ HT. THIỀN-TÂM (21-11-92 ÂL)
14-12-2022 DL
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
Vào đêm RẰM, ngày 15/5/1989 Âm lịch (nhằm ngày KỶ DẬU, tháng CANH NGỌ, năm KỶ TỴ), sau thời khóa, HT THÍCH THIỀN-TÂM bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN-TU NGẪU VỊNH.
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
TỰ-CẢM
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
ÐÔI LỜI PHI LỘ
Ba tạng Kinh-điển của Phật-giáo hiện nay gồm có đến hơn vạn quyển. Trong ấy, những Kim-ngôn của Ðấng Ðiều-Ngự và huyền-nghĩa của chư Tổ, hàm ẩn Ðạo-lý thâm thúy vô biên. Muốn du ngoạn trong bể Phật-pháp bao la, hay lên đỉnh non thánh-giáo để nhìn khắp nơi bằng tầm mắt càn-khôn-nhất-lãm, phải phí nhiều thời giờ và tâm lực, mà giữa cuộc sống nhiều vướng bận ngày nay, ít ai làm nổi. Vì lẽ ấy, đã từ lâu bút giả có ý muốn gom góp phần tinh yếu của thánh-giáo viết ra thành tập, để giúp những vị mến đạo mầu của Ðức Thế-Tôn, có sự hiểu biết khái quát về pháp Phật. Và ý định nầy đã được thực hiện từ năm 1963, nhân lúc sắp sửa ra đảm nhận trường Phật-Học Huệ-Nghiêm.
Nội dung của toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU sau đây gồm có nhiều thiên, mỗi thiên phân thành nhiều chương, và mỗi chương bao hàm nhiều mục. Ðó là hệ thống phân biệt để duyệt giả dễ ghi nhận. Ðiều đáng chú ý là phần trích dẫn những Kinh-luận trong đây, nghĩa lý nó không có tánh cách nhất định. Tại sao thế? Bởi giáo pháp của thánh-nhân nói ra đều tùy thời tùy cơ để dắt dìu, phá chấp. Có thể một lời thuyết giáo đối với căn cơ nầy thích hợp nhưng với cơ khác không thích hợp, với thời gian trước tiện nghi song với thời nay không tiện nghi. Cho nên một vị tôn túc đã bảo: “Y theo Kinh giải nghĩa là oan cho chư Phật ba đời, nhưng lìa Kinh một chữ tức đồng với ma thuyết”. Vậy chỗ thu thập của người khéo học Phật là không chấp Kinh, không bỏ Kinh, như người đời đã bảo: “Khôn chết, dại cũng chết, duy biết mới sống”. Và người khéo học Phật cũng đừng chấp lý bỏ sự, hay chỉ theo sự quên phần lý. Về việc được ý quên lời nầy, duy mỗi người tự thể hội, không thể nói hết được.
“Trần chẳng tương quan, bể cả nương dâu mặc thay đổi.
Lòng không sở đắc, thông xanh mây trắng tự vui nhàn”.
Xin mượn hai câu nầy để chúc sự thành tựu của duyệt giả sau khi đọc xong toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU.
Ngày 12-8-1965
Tỳ-khưu Thiền Tâm, tự Liên Du
HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN-TÂM
Khai Thị
Cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm
Sưu tập: Cư sĩ Bành Tế Thanh & Hy Tốc
Soạn dịch: Cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm
HOA-NGHIÊM NGUYÊN-NHÂN LUẬN của Sa-môn TÔNG-MẬT, chùa QUÊ-PHONG.
Có một độ, bút giả (Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm) vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót,
đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh
sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
Lời bàn: Thông thường người tụng kinh đều tìm kiến giải, rồi theo kiến giải mà thực hành, như theo Hòa Thượng thì quên hết mọi điều kiến giải, đọc từ đầu đến cuối, thì mới hợp với “CHƠN TÂM BỔN TÁNH”.
Cũng như lìa sáu trần: Sắc, Thanh, Hương,Vị, Xúc, Pháp mà có sự hiểu biết , thì đó mới là CHƠN TÂM của chính mình. (KINH LĂNG NGHIÊM)
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
PHẬT THUYẾT VU LAN BỒN KINH SỚ
Sa-môn Tông Mật, người Sung quốc soạn.
NGÀY RẰM THÁNG BẢY : LỄ VU LAN BỒN
THỨ SÁU , NGÀY 12 THÁNG 8 NĂM 2022
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Đồng lòng thọ-lãnh bát cơm lục-hòa
Ẩn tu nhớ đến đức sanh thành
Lắm lúc vì con chẳng tạo lành
Con lớn Mẹ Cha oằn gánh nghiệp
Bảo châu đền đáp cũng mong manh !
Ẩn tu nguyện trả nghĩa song đường
Hồi hướng công phu mỗi khoá thường
Lại khuyến nghiêm-từ tâm đạo phát
Nương thuyền Phật huệ đến Tây-phương.
(KINH ĐỊA TẠNG : Từ phẩm thứ 7 cho đến phẩm thứ 13 là “TRUYỀN BÁ LƯU THÔNG” CHO CHÚNG SANH BIẾT ĐƯỢC KINH NẦY. TỨC LÀ LÀM CHO
CHÚNG-SANH THẤY NGHE ĐƯỢC BỔN NGUYỆN, BỔN HẠNH VÀ THẦN LỰC BẤT KHẢ TƯ NGHÌ CỦA ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT, MÀ Y THEO ĐÓ TU HÀNH “PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM”. VẬY AI LÀM VIỆC NẦY? CHÍNH LÀ “BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM”)
HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH KHAI THỊ
NGÃ KIM TRÌ NIỆM A-DI-ĐÀ
TỨC PHÁT “BỒ-ĐỀ” QUẢNG ĐẠI NGUYỆN
NGUYỆN NGÃ ĐỊNH-HUỆ TỐC VIÊN MINH
NGUYỆN NGÃ CÔNG-ĐỨC GIAI THÀNH TỰU
NGUYỆN NGÃ THẮNG-PHƯỚC BIẾN TRANG-NGHIÊM
NGUYỆN CỘNG CHÚNG-SANH THÀNH PHẬT ĐẠO
Kệ Niệm Phật
(Hòa Thượng Thích Trí Tịnh soạn)
Không gấp cũng không hưởn
ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHƠN TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
The Dharani Sutra
THE SUTRA OF
THE VAST, GREAT, PERFECT, FULL, UNIMPEDED,
GREAT COMPASSION HEART DHARANI
OF THE
THOUSAND-HANDED, THOUSAND-EYED
BODHISATTVA WHO REGARDS THE WORLD’S SOUNDS
with the commentary
of
THE VENERABLE
TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
TABLE OF CONTENTS
PART ONE: THE SUTRA
THE VAST, GREAT, PERFECT, FULL, UNIMPEDED,
GREAT COMPASSION HEART DHARANI
THOUSAND-HANDED, THOUSAND-EYED
BODHISATTVA WHO REGARDS THE WORLD’S SOUNDS
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN
http://www.dharmasite.net/daibidalani1.htm
PART TWO : THE MANTRA
https://tangthuphathoc.net/dai-bi-chu-giang-giai-ban-dich-cua-thich-nhuan-chau/
ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI
MAHAKARUNA DHARANI
Hòa-Thuợng THÍCH-THIỀN-TÂM dịch từ PHẠM-VĂN ra VIỆT-VĂN
Tỳ-kheo-ni thích nữ PHƯƠNG-LIÊN (TỤNG - YOUTUBE)
1. The As-You-Will Pearl Hand and Eye
MARA MARA (MA RA MA RA) [25]
2. The Lariat Hand and Eye
PRANILA (BỜ RA NI LA) [62]
3. The Jeweled Bowl Hand and Eye
HULU HULU SHRI ( HU LU HU LU SÍ RI) [42]
4. The Jeweled Sword Hand and Eye
TRISA RANA (TRI SA RA NA) [50]
5. The Vajra Hand and Eye
CHAKRA ASTAYA (SẮT KỜ RA, A SÍT TA DA) [68]
6. The Vajra Pestle Hand and Eye
SARA SARA (SA RA SA RA) [43]
7. The Bestowing Fearlessness Hand and Eye
NILAKANTÉ PANTALAYA (NI LA KANH TÊ BANH TA LA DA) [72]
8. The Sun Essence Mani Hand and Eye
SHVARAYA (SOA VA RA DA) [32]
9. The Moon Essence Mani Hand and Eye
DHURU DHURU (ĐU RU ĐU RU) [28]
10. The Jeweled Bow Hand and Eye
BASHÁ BHASNIN (BA SA PHA SÍ NIN) [39]
11. The Jeweled arrow Hand and Eye
BHAYA MANE (PHA DA MA NÊ) [51]
12. The Willow Branch Hand and Eye
MUDHILI (MUÝT ĐI LI) [35]
13. The White Whisk Hand and Eye
MÀMÀ (MẠ MẠ) [34]
14. The hu Bottle Hand and Eye
NILAKANSTA (NI LA KANH SÍ TA) [49]
15. The Shield Hand and Eye
BHASHIYATI (PHA SI DA TI) [28]
16. The Ax Hand and Eye
SHRISINHAMUKHAYA (SÍT RI SIN HA MUÝT KHA DA) [64]
17. The Jade Ring Hand and Eye
HULU HULU PRA (HU LU HU LU BỜ RA) [41]
18. The White Lotus Hand and Eye
GHAMAIN (GÀ MĂN) [27]
19. The Blue Lotus Hand and Eye
RIDHAYU (RÍT ĐÀ DU) [26]
20. The Jeweled Mirror Hand and Eye
SHINA SHINA (SI NA SI NA) [37]
21. The Purple Lotus Hand and Eye
BHARASHÁYA (PHA RA SÁ DA) [40]
22. The Jewel-chest Hand and Eye
SITAYAYE (SI TA DA DÊ) [57]
SHVARAYA (SOA VA RA DA) [58]
23. The Five-colored Cloud Hand and Eye
MASHI MASHI (MA SI MA SI) [26]
24. The Kundi Hand and Eye
DHARA DHARA (ĐA RA ĐA RA) [30]
25. The Red Lotus Hand and Eye
PADMAKÉSTAYA (PÁT ĐƠ MẠ KÊ SÍT TA DA) [70]
26. The Jeweled Halberd Hand and Eye
MAHA BHASHIYATI (MA HA PHA SI DA TI) [29]
27. The Jeweled Conch Hand and Eye
GURU GURU (GU RU GU RU) [27]
28. The Skull Bone Staff Hand and Eye
EHY EHY (Ê HY Ê HY) [36]
29. The Recitation Beads Hand and Eye
BALASHÁRI (BA LA SÁ RI) [38]
30.
The Jeweled Bell Hand and Eye
JÁLA JÁLA (JÁ LA JÁ LA) [33]
31. The Jeweled Seal Hand and Eye
SABHO SABHO (SA PHÔ SA PHÔ) [24]
32. The Corpse Iron Hook Hand and Eye
DHIRINI (ĐI RI NI) [31]
33. The Pewter Staff Hand and Eye
MAITRIYÉ (MÉT TRI DÊ) [48]
34. The Joined Palms Hand and Eye
SIRI SIRI (SI RI SI RI) [44]
35. The Transformation Buddha on the Palm Hand and Eye
ALASHIN (A LA SIN) [38]
36. The Transformation Palace Hand and Eye
BHÀMARA (PHẠ MA RA) [34]
37. The Jeweled Sutra Hand and Eye
SITAYA. SVAHA.
MAHA SITAYA. SVAHA. (MA HA SI TA DA. SÓA HA.) [55-56]
38. The Non-retreating Gold Wheel Hand and Eye
BUDDHÀYA (BUÝT ĐÀ DA) [46]
39. The Transformation Buddha Atop the Crown Hand and Eye
BUDHÀYA (BỒ ĐÀ DA)
40. The Grape Hand and Eye
ASTAYA (A SÍT TA DA) [66]
41. The Sweet Dew Hand and Eye
SURU SURU (SU RU SU RU) [45]
42. The Uniting and Holding Thousand Arms Hand and Eye
MOPHOLISHAN KARAYA (MÔ PHÔ LI SĂN, KA RA DA) [74]
PART THREE : MANTRA ILLUSTRATIONS
ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”
http://www.drbachinese.org/online_reading/sf_others/DaBeiJou/contents.htm
MAHA KARUNA DHARANI
ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”
(MAHAKARUNA DHARANI ILLUSTRATIONS)
Hòa-Thuợng THÍCH-THIỀN-TÂM dịch từ PHẠM-VĂN ra VIỆT-VĂN
(NA MÔ RÁT NA TRA DẠ DA)
2. NAMO ARYA
(NA MÔ A RỊ DA)
(A VA LÔ KI TÊ, SA VA RA DA)
4. BODHISATTVAYA
5. MAHASATTVAYA
6. MAHA KARUNIKAYA
7. AUM!
8. SAVALAVATI
9. SUDHANATASYA
10. NAMASKRITTVA NIMAN ARYA
11. AVALOKITÉSHAVARA
LANTABHA
12. NAMO NILAKANTHA
13. SRI MAHAPATASHAMI
14. SARVAD VATASHUBHAM
15. ASHIYUM
16. SARVASATTVA NAMO
PASATTVA NAMO BHAGA
17. MABHATETU
18. TADYATHA
19. AUM! AVALOKA
20. LOKATE
21. KALATI
22. ISHIRI
23. MAHABODHISATTVA
24. SABHO SABHO
(SA PHÔ SA PHÔ)
25. MARA MARA
26. MASHI MASHI RIDHAYU
27. GURU GURU GHAMAIN
28. DHURU DHURU BHASHIYATI
29. MAHA BHASHIYATI
30. DHARA DHARA
31. DHIRINI
32. SHVARAYA
33. JÁLA JÁLA
34. MÀMÀ BHÀMARA
35. MUDHILI
36. EHY EHY
37. SHINA SHINA
38. ALASHINBALASHÁRI
39. BASHÁ BHASNIN
40. BHARASHÁYA
41. HULU HULU PRA
42. HULU HULU SHRI
43. SARA SARA
44. SIRI SIRI
45. SURU SURU
46. BUDDHÀYA BUDDHÀYA
47. BODHÀYA BODHÀYA
48. MAITRIYÉ
49. NILAKANSTA
50. TRISA RANA
51. BHAYA MANE
52. SVAHA
53. SITAYA
54. SVAHA
55. MAHA SITAYA
56. SVAHA
57. SITAYAYE
58. SHVARAYA
59. SVAHA
60. NILAKANTHI
61. SVAHA
62. PRANILA
63. SVAHA
64. SHRISINHAMUKHAYA
65. SVAHA
66. SARVA MAHA ASTAYA
67. SVAHA
68. CHAKRA ASTAYA
69. SVAHA
70. PADMAKÉSHAYA
71. SVAHA
72. NILAKANTÉ PANTALAYA
73. SVAHA
74. MOPHOLISHAN KARAYA
75. SVAHA
76. NAMO RATNATRAYAYA
77. NAMO ARYA
78. AVALOKITÉ
79. SHAVARAYA
80. SVAHA
81.
AUM! SIDDHYANTU
82.
MANTRA
83.
PATAYA
84.
SVAHA
Bồ-đề tát đỏa bà da4,
ma ha tát đỏa bà da5, ma ha ca lô ni ca da6, án7, tát bàn ra phạt duệ8, số đát na đát tỏa9.
Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da10, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà11.
Nam-mô na ra cẩn trì12, hê rị ma ha bàn đa sa mế13, tát bà a tha đậu thâu bằng14, a thệ dựng15, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già16, ma phạt đạt đậu17, đát điệt tha. Án18, a bà lô hê19, lô ca đế20, ca ra đế21, di hê rị22, ma ha bồ-đề tát đỏa23,
ma ra ma ra25 Như-Ý-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp [1] ,
ma hê ma hê, Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp [23]
rị đà dựng26 Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp [19] ,
cu- lô cu-lô Bảo-Loa Thủ Nhãn Ấn Pháp [27]
kiết mông27 Bạch-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp [18] ,
độ lô độ lô, Nguyệt-Tinh Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp [9]
phạt xà da đế28 Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp [15] ,
ma ha phạt xà da đế29 Bảo-Kích Thủ Nhãn Ấn Pháp [26],
đà ra đà ra30 Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp [30],
địa rị ni31 Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp [32] ,
thất Phật ra da32 Nhật-Tinh-Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp [8] ,
dá ra dá ra33 Bảo-Đạc Thủ Nhãn Ấn Pháp [30] .
Mạ mạ Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp [13]
phạt ma ra34 Hóa-Cung-Điện Thủ Nhãn Ấn Pháp [36] ,
mục đế lệ35 Dương-Chi Thủ Nhãn Ấn Pháp [12] ,
y hê di hê36 Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp [28] ,
thất na thất na37 Bảo-Kính Thủ Nhãn Ấn Pháp [20] ,
a ra sâm Chưởng-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn Ấn Pháp [35]
Phật ra xá-lợi38 Sổ-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp [19] ,
phạt sa phạt sâm39 Bảo-Cung Thủ Nhãn Ấn Pháp [10] ,
Phật ra xá da40 Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp [21] ,
hô lô hô lô ma ra41 Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp [17] ,
hô lô hô lô hê lỵ42 Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp [3] ,
ta ra ta ra43 Kim-Cang-Xử Thủ Nhãn Ấn Pháp [6] ,
tất rị tất rị44 Hiệp-Chưởng Thủ Nhãn Ấn Pháp [34],
tô rô tô rô45 Cam-Lộ Thủ Nhãn Ấn Pháp [41] ,
bồ-đề dạ bồ-đề dạ46 Bất-Thối Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp [38],
bồ-đà dạ bồ-đà dạ47 Đảnh-Thượng-Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp [39] ,
di đế rị dạ48 Tích-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp [33] ,
na ra cẩn trì49 Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp [14] ,
địa rị sắt ni na50 Bảo-Kiếm Thủ Nhãn Ấn Pháp [4] ,
ba dạ ma na51 Bảo-Tiễn Thủ Nhãn Ấn Pháp [11] ,
ta bà ha52.
Tất đà dạ53, ta bà ha54. Ma ha tất đà dạ55, ta bà ha56 Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp [37].
Tất đà dủ nghệ57, thất bàn ra dạ58 Bảo-Khiếp Thủ Nhãn Ấn Pháp [23],
ta bà ha59. Na ra cẩn trì60, ta bà ha61.
Ma ra na ra62 Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp [2] ,
ta bà ha63.
Tất ra tăng a mục khê da64 Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp [16] ,
ta bà ha65.
a tất đà dạ66 Bồ-Đào Thủ Nhãn Ấn Pháp [40],
ta bà ha67.
Giả kiết ra a tất đà dạ68 Bạt-Chiết-La Thủ Nhãn Ấn Pháp [5] ,
ta bà ha69.
Bà đà ma yết tất đà dạ70 Hồng-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp [25] ,
ta bà ha71.
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ72 Thí-Vô-Úy Thủ Nhãn Ấn Pháp [7] ,
ta bà ha73.
Ma bà lỵ thắng yết ra dạ74 Tổng-Nhiếp-Thiên Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp [42],
ta bà ha75.
Nam-mô hắt ra đát na, đa ra dạ da76.
Nam-mô a rị da77, bà lô yết đế78, thước bàng ra dạ79, ta bà ha80.
Án tất điện đô81, mạng đa ra82, bạt đà dạ83, ta bà ha84.
PART FOUR : THE FORTY-TWO HANDS
https://www.youtube.com/watch?v=tCl15qWAJr8&list=PLEOtr8aMFBfX-Z0MHl9HlByFkc_mopHlb
( OM MANI PADME
HUM)
Tam Tạng Pháp Sư Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng vào năm 1971
...
Người không hiểu thì cho rằng cái
gì bí mật mới tốt nhất, vì nó không được
truyền bá công khai. Có một số người không hiểu Phật Pháp, lại càng làm ra
vẻ thần bí, bảo: “Cái nầy không thể giảng
cho ông nghe được. Mật tông của tôi ấy à, không thể giảng cho ông nghe được
đâu!” Quý vị không thể giảng cho người khác nghe, thì tại sao quý vị lại đề cập đến nó chứ?
Tại sao quý vị lại nói: “Tôi
không thể giảng cho ông nghe”? Nếu thật sự là Mật tông thì phải không nói gì cả
mới đúng, tại sao quý vị còn nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Quý vị
nói rằng mình không thể giảng, song, như thế có phải là quý vị đã giảng rồi
không?
Đó chính là quý vị đã giảng rồi đấy!
Thế tại sao còn nói là không thể giảng được? Là vì không hiểu rõ Phật Pháp, căn
bản không hiểu được cái gì gọi là “Mật Tông”!
...
Tiễn xạ cường địch đảm lạc hàn
Khắc thù chí thắng thao tả khoán
Nhân Quý tướng quân bình liễu loạn
Khải ca cao xướng lạc quần thiên.
Bây giờ là thời Mạt pháp đấu tranh kiên cố, mà chúng ta có thể tu trì Phật pháp, làm cho Phật pháp còn mãi ở đời, hành trì sự nghiệp của Chánh pháp, mỗi ngày tụng trì chú Lăng Nghiêm, như thế là chúng ta giúp đỡ cho toàn thế giới này vậy! Tại sao thế? Bởi vì nếu thế giới này không còn một ai tụng chú Lăng Nghiêm cả, thì thế giới sẽ sớm đi đến chỗ hủy diệt.
Bấy giờ tất cả yêu ma quỷ quái, ly mị vọng lượng, đều xuất hiện. Hiện tại vì sao chúng không dám xuất hiện? Vì ở thế giới này vẫn còn có người trì tụng chú Lăng Nghiêm, tu 42 Thủ Nhãn của chú Ðại Bi, tu pháp môn ngàn tay ngàn mắt, nên yêu ma quỷ quái kiêng sợ, không dám xuất hiện, hoành hành.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm Lược Giảng
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Hán dịch: Dao Tần, Tam-tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập.
Giảng thuật: Hòa Thượng Tuyên Hóa,
Vạn Phật Thánh Thành, Hoa Kỳ.
( PHẬT, BỒ-TÁT và TỔ-SƯ ĐỂ LẠI “KINH,LUẬT và LUẬN” là đã “TRUYỀN PHÁP” CHO QÚY-VỊ RỒI. CỨ Y THEO (THÁNH NGÔN LƯỢNG) MÀ HÀNH TRÌ SẼ ĐƯỢC THÀNH TỰU.
XIN QÚY-VỊ XEM LẠI LỜI CHÚ GIẢI 42 THỦ NHÃN ẤN-PHÁP CỦA HT.TUYÊN-HÓA, HT.THIỀN-TÂM...)
Giới Thiệu Kinh Hoa Nghiêm
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Bộ Kinh Hoa Nghiêm này chính là kinh của Pháp Giới, cũng chính là kinh của Hư Không. Tận cõi hư không cùng khắp Pháp Giới, không một nơi nào chẳng phải là trú xứ của Kinh Hoa Nghiêm. Mà trú xứ của Kinh Hoa Nghiêm chính là trú xứ của Phật cũng chính là trú xứ của Pháp, cũng chính là trú xứ của Hiền Thánh Tăng, cho nên khi Phật mới thành Chánh Giác, liền nói bộ Kinh Hoa Nghiêm này giáo hóa tất cả Pháp thân Bồ Tát. Bộ Kinh Hoa Nghiêm này vì nó là bộ kinh mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, thế nên đem cất giữ nó trong cung rồng để Long Vương giữ gìn. Sau này do Bồ Tát Long Thọ đến long cung và trở về chép lại theo sự ghi nhớ của mình.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm này cũng tựa như đám mây lành giữa hư không, chiếu soi khắp ba ngàn đại thiên thế giới, như giọt mưa pháp cam lộ thấm nhuần đến tất cả từng chúng sanh. Bộ kinh này cũng giống như vầng thái dương chiếu khắp đại thiên thế giới khiến cho tất cả chúng sanh đều được ấm áp, kinh này cũng giống như đại địa, có thể nuôi lớn tất cả muôn vật, cho nên có thể nói khi có sự hiện hữu của Kinh Hoa Nghiêm này là Chánh Pháp còn trụ thế lâu dài.
Mỗi ngày chúng ta giảng giải, nghiên cứu Kinh Hoa Nghiêm, mục đích là nương vào đạo lý của kinh mà tu hành, phải dùng kinh điển để chữa trị những thói hư tật xấu của chính mình. Chính mình có tâm tham, nghe được Kinh Hoa Nghiêm thì phải dẹp trừ nó đi, hễ có tâm sân, khi nghe kinh này cần phải đoạn trừ tâm sân, có tâm ngu si khi nghe kinh này rồi cũng phải loại trừ cho được.
Những nghĩa lý được trình bày của bộ kinh này chính là đối trị với những tập khí của chúng ta. Chớ cho rằng những gì được nói trong đây chỉ vì Bồ Tát mà nói, chẳng can hệ gì đến chính mình. Hoặc đây là pháp nói cho hàng A-la-hán, cũng chẳng liên quan gì đối với tự thân.
Hàng phàm phu chúng ta nghe kinh này chỉ là nghe nghe vậy thôi, mình tự cho rằng mình không đạt được cảnh giới của bậc thánh. Quý vị nếu nghĩ như vậy chính là tự ruồng bỏ mình, tự tuyệt nhân với thánh nhơn.
( Cho nên, khi trì CHÚ ĐẠI-BI, hoặc 1 THỦ-NHÃN...thì bao gồm cả THỂ, TƯỚNG, DỤNG.
HÀNG PHỤC LÀ LÀM CHO THIÊN MA, NGOẠI ĐẠO, TẤT CẢ CHÚNG-SINH, PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.)
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
PHÁP-YẾU-TU-HÀNH
H.T Thích-Thiền-Tâm
“ HIỂN-MẬT VIÊN THÔNG THÀNH PHẬT TÂM-ẤN” cũng được.
Tóm lại, nếu qúy-vị thường trì tụng BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP thì cũng như NGƯỜI thường trì tụng bộ KINH THỦ LĂNG NGHIÊM, tức là KINH “ HIỂN-MẬT VIÊN THÔNG THÀNH PHẬT TÂM-ẤN”, thì sẽ rõ biết con đường chơn thật tu hành từ khi mới phát tâm cho đến khi thành tựu QỦA DIỆU-GIÁC của CHƯ PHẬT như trong lòng bàn tay vậy.
CHO NÊN, DÙ CHO QÚY-VỊ TU THEO PHÁP MÔN NÀO CŨNG ĐỀU ĐƯỢC VIÊN-THÔNG VÔ-NGẠI. TẠI SAO VẬY ? VÌ ĐỀU DÙNG “TRÍ KIM-CANG” KHÔNG SANH CŨNG KHÔNG DIỆT MÀ KHỞI TU, NÊN ĐƯỢC TỰ-TẠI.
TRÍ KIM-CANG là: “NHẬP ĐẠO YẾU MÔN, QUÁN LÝ NHƯ-HUYỄN.” THÌ SẼ TU CHỨNG TỪNG PHẦN CHO ĐẾN QỦA DIỆU-GIÁC CỦA CHƯ PHẬT.
KINH-VĂN:
Các thứ địa ấy, đều lấy trí Kim-cang quán-sát mười thứ ví-dụ như-huyễn sâu-xa, trong Xa-ma-tha, dùng phép Tỳ-bà-xá-na của các đức Như-lai mà thanh-tịnh tu-chứng, lần-lượt đi sâu vào.
[
1. Quán NGƯỜI như huyễn
2. Quán ÁNH NẮNG (DƯƠNG DIỆM) như huyễn
3. Quán TRĂNG DƯỚI NƯỚC như huyễn
4. Quán HOA ĐỐM TRONG HƯ KHÔNG như huyễn
5. Quán TIẾNG VANG TRONG HANG ĐỘNG như huyễn
6. Quán THÀNH CÀN THÁT BÀ ( LÀM BẰNG HƠI SƯƠNG TRONG BIỂN) như huyễn
7. Quán MỘNG như huyễn
8. Quán BÓNG như huyễn
9. Quán TƯỢNG TRONG GƯƠNG như huyễn
10. Quán ẢO HÓA như huyễn.
]
Thân như bọt
Bể thương tang
Chìm nổi kiếp mênh mang!
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô Lượng Quang.
Trời niệm tâm
Núi kiên quyết
Vọng tình xin cách tuyệt
Dần dà khó thể nhập Liên Bang
Thân như bọt
Bể thương tang
Chìm nổi kiếp mênh mang!
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô Lượng Quang.
Lúc đầu, thì Bồ-tát Văn-Thù Sư-lợi dạy cho Thiện-Tài Đồng-Tử “PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM”, tức là chỉ dạy cho Thiện-Tài về phần “TÍN-GIẢI”, mà không dạy về phần “HÀNH-CHỨNG”, KHÔNG DẠY làm thế nào để “NHẬP PHÁP GIỚI.”
Rồi THIỆN TÀI được Bồ-tát Văn-thù giới thiệu theo học với “TỶ-KHƯU ĐỨC VÂN”, rồi Tỷ-khưu Đức-vân giới thiệu tới một vị “Thiện Tri Thức” khác… cho đến sau cùng gặp ”PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT” dạy THIỆN TÀI “PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH” VỀ CÕI CỰC LẠC CỦA ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ, thì mới mau “NHẬP PHÁP GIỚI” một cách viên mãn.
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Ðể được Phổ Hiền hạnh thù thắng.
Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
Trừ hết tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Ðà
Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc,
Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc tất cả các chúng sanh.
Chúng hội Di Ðà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sinh ra
Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang
Liền thọ ký tôi đạo Bồ Ðề.
Nhờ đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Khắp lợi tất cả chúng sanh giới.
Nhẫn đến hư không thế giới tận
Chúng sanh, nghiệp và phiền não tận
Nhưng bốn pháp ấy không cùng tận
Nguyện tôi rốt ráo hằng vô tận
Tại sao “Bồ-tát Văn-thù” không dạy, mà giới thiệu tới “Tỷ-khưu Đức-vân” học Đạo ? Vì bấy giờ, Thiện-tài không thấy rằng gặp Bồ-tát Văn-thù là một chuyện hy-hữu, trong trăm ngàn muôn ức kiếp khó gặp được một lần, nên dù Bồ-tát Văn-thù có dạy, thì Thiện-tài cũng không chứng nhập được.
Cho nên, trước khi lên đường tìm cầu “THIỆN TRI THỨC”, Bồ-tát Văn-thù dặn dò THIỆN-TÀI rằng:
“Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm. (Y theo PHÁP không Y theo NGƯỜI)
Lời dạy của “BỒ-TÁT VĂN-THÙ” cũng giống như Phẩm “TỨ-Y” trong “Kinh Đại-Bát Niết-Bàn”:
1) Y theo PHÁP không Y theo NGƯỜI
2) Y theo NGHĨA không Y theo LỜI
3) Y theo TRÍ không Y theo THỨC
4) Y theo KINH LIỄU-NGHĨA không Y theo KINH CHẲNG LIỄU NGHĨA
Phương nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tỳ kheo tên là Ðức Vân. Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Ðức Vân : Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải như thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tỳ Kheo Ðức Vân sẽ chỉ bảo cho ngươi.”
Thiện Tài đồng tử nghe xong hớn hở vui mừng, đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rơi lệ từ tạ mà đi qua hướng Nam, đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu Phong. Ở trên núi đó xem ngó tìm kiếm khắp bốn phía, lòng khao khát muốn được gặp Tỳ-Kheo Ðức-Vân. Bảy ngày sau mới được thấy T ỳ Kheo Ðức Vân ở trên ngọn núi khác đi kinh hành chậm rãi.
BÀI HỌC THỨ 1: DẠY “NHỚ NIỆM THIỆN TRI THỨC” trong 7 ngày.
Tỷ-khưu Đức-vân dạy Thiện-tài về môn “NHỚ NIỆM THIỆN TRI THỨC”, cũng giống như pháp “TRÌ DANH HIỆU PHẬT”, trong KINH A-DI-ĐÀ , làm cho Thiện-tài có “TÂM” mong cầu muốn gặp được Thiện-Tri-Thức, nên trong 7 ngày nhớ niệm, khát ngưỡng mong gặp Tỷ-khưu Đức-vân, nên được nhất Tâm, như chỉ được sự nhất tâm mà thôi, vì còn thấy mình ở núi bên nầy, Tỷ-khưu Đức-vân ở núi bên kia (còn năng niệm sở niệm)
Như phương đông, chín phương kia cũng đều thấy như vậy.
BÀI HỌC THỨ 2 :
DẠY “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”
Khi niệm một vị Phật nào đó tới “không còn năng niệm sở niệm”, thì thấy được TẤT CẢ CHƯ PHẬT HIỆN Ở TRONG “PHỔ-QUANG MINH TRÍ” SÁT-NA TẾ TAM MUỘI , rồi “Qúy-vị” có khả năng hóa hiện vô-lượng thân, ở trước vô-lượng chư Phật ở 10 phương đồng thời niệm Phật. Vì Thường niệm tất cả chư Phật Như Lai, nên Thường thấy tất cả chư Phật ở mười phương Tịnh-độ.
Đây gọi là “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”. Còn gọi là: “PHỔ-QUANG MINH TRÍ” SÁT-NA TẾ TAM MUỘI.”
Cảnh giới nầy, cũng giống như LỄ PHẬT “không còn năng lễ sở lễ”.
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Tóm lại, nếu “Qúy-vị” tu Tử Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp, không còn năng niện sở niệm, thì gặp được chư Phật ở 10 phương “TỊNH ĐỘ” làm “THIỆN TRI THỨC”.
VÌ gặp được 10 phương chư Phật làm “ THIỆN TRI THỨC” , nên được pháp Giải-thoát không thể nghĩ bàn, mau chứng qủa Bồ-đề của Phật, rồi mới “TỰ-TẠI” vào Lục-đạo để cứu độ tất cả Chúng-sanh “MÀ KHÔNG BỊ THOÁI CHUYỂN”, hoặc “THUẬN” hoặc “NGHỊCH” tùy ý của “QÚY-VỊ”.
Bồ đề tốc chứng giải thoát pháp
Diện kiến thập phương Phật-đà-da
Tùng kim bất lạc lục đạo gia.
Niệm
Phật Phải Khắc Kỳ Cầu Chứng Nghiệm
Tiết 51
Biện Ma Cảnh
Như trên đã nói, người niệm Phật có
khi thấy các tướng song lại là ma cảnh; điều này chỉ cho trường hợp nhân quả
không tương ứng. Chẳng hạn như người đang quán tướng Phật, hốt nhiên thấy tướng
mỹ nữ. Kẻ tinh tấn niệm Phật mong thấy thắng cảnh ở Tây Phương, song chợt thấy
một vùng nhà cửa ô tạp, nam nữ cùng loài súc vật đi qua chạy lại lăng xăng.
Người mong thấy hoa sen báu, nhưng bỗng thấy một cỗ xe nhỏ. Do nhân quả không
hợp nhau như thế, nên biết là cảnh ma. Có năm trường hợp để phân biệt là cảnh
ma hay cảnh thật như sau:
1. Các cảnh nhân quả không phù hợp,
quán tướng này song thấy tướng khác, cầu cảnh nọ mà lại hiện cảnh kia, như trên
đã vừa nói. Và lại, cảnh hiện ra không giống như trong kinh diễn tả, đều là
cảnh ma.
2. Chư Phật, Bồ Tát tâm từ bi trong sạch,
cho nên dù hiện tướng quỷ thần đến thử thách, ta vẫn cảm thấy an nhiên thanh
tịnh. Trái lại, bản nghiệp các loài ma là phiền não hiểm ác, nên dù hiện tướng
Phật đến khuyên dạy, ta tự cảm thấy xao động nóng nảy không yên.
3. Ánh sáng của Phật làm cho ta cảm
thấy êm dịu mát mẻ, lại không có bóng, không chói mắt. Ánh sáng của ma làm cho
ta chói xót đôi mắt, bứt rứt không yên, và có bóng. Cho nên Kinh Lăng Già nói:
Phật địa
là tối thắng
Trong sạch mầu trang nghiêm
Chiếu hiệu như lửa hừng
Ánh sáng đến khắp nơi
Rực rỡ không tổn mắt
Xoay vần độ ba cõi.
4. Lời thuyết pháp của Phật, Bồ Tát
hợp với kinh điển, thuận theo chân lý. Lời của ma trái lẽ phải, không đúng với
kinh Phật đã chỉ dạy.
5. Khi thắng tướng hiện ra, muốn khảo
nghiệm, hành giả chỉ chánh ý tụng Bát Nhã Tâm Kinh, hoặc nhiếp tâm trì chú,
niệm Phật. Nếu là thánh cảnh, càng niệm lại càng rõ ràng, vì vàng thật không sợ
lửa. Nếu là ma cảnh, trì niệm một hồi nó liền ẩn mất, bởi tà không thể lấn
chánh.
* Phải lấy cả năm điều như trên để xét
nghiệm, chớ không thể chỉ một hai điều. Vì có những thiên ma hoặc thần tiên
theo ngoại phái, muốn dắt dẫn ta hướng về đường lối của họ, nên giả hiện tướng
Phật, Bồ Tát để thuyết pháp. Tuy môn tu của họ không phải là con đường cứu cánh
giải thoát, song họ có nghiệp lành, hoặc sức Thiền Ðịnh khá cao, nên hào quang
phát ra cũng làm cho ta được mát mẻ êm dịu. Lại lối thuyết pháp của họ đôi khi
cũng khuyên làm lành giữ giới, ăn chay niệm Phật, song có một vài điểm sai khác
không hợp với kinh Phật, phải nhận định kỹ và phải hiểu giáo lý mới biết được.
Chẳng hạn như họ cũng khuyên ăn chay niệm Phật, nhưng lại dạy phải vận hành câu
niệm Phật khắp châu thân gọi là "chuyển pháp luân" để khai thông mạch
Nhâm, Đốc, và mở Nê Hoàn Cung. Đây là lối thuyết pháp của hàng ma ngoại đạo.
Hoặc có loài ma hiện ra tướng cao tăng bảo: "Phật đồng, Phật xi măng không
độ được nước, vì xuống nước phải chìm; Phật tượng, Phật gỗ không độ được lửa,
vì gặp lửa phải bị cháy; chỉ có Phật tâm mới không bị vật chi làm hoại. Tu được
Phật tâm thanh tịnh thì không cần tu thân và khẩu; cho nên dù ăn thịt uống
rượu, có vợ con cũng vô hại. Lối tu thân và khẩu như giữ giới, ăn chay, tụng
kinh, trì chú, niệm Phật, là những cách khổ hạnh bó buộc vô ích." Đây là
lời thuyết pháp của hạng tinh mị lâu năm, hoặc loài ma ái dục. Có những hạng ma
ngoại đạo công năng tu khá cao, có thể dùng sức Thiền Ðịnh gia bị, khiến cho
hành giả thân tâm được an định trong vòng bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày.
Nhưng lối thuyết pháp của họ không siêu thoát, kết cuộc chỉ trong vòng ngã chấp.
* Cổ đức đã bảo: "Thấy ma không
ma, ma liền tự hoại; thấy quái không quái, quái liền tự bại." Câu này có
nghĩa: nếu thấy ma quái mà lòng không xao động sợ hãi, giữ chánh niệm được vững
vàng, hoặc chí tâm niệm Phật, loài ma quái ấy không làm chi được, sẽ tự bỏ đi.
Chẳng những khi thấy ma quái phải như thế, mà dù cho lúc tu hành được một phần
kết quả, hay thấy thắng tướng, cũng đừng nên quá bi cảm, kinh ngạc hoặc vui
mừng. Ví như ta có hạt châu làm rớt dưới đáy hồ, vì nước đục nên dò kiếm mãi
vẫn mất tích. Nay nước lắng trong lại tìm thấy được, hạt châu ấy nguyên là của
đã có, việc chi đến đỗi phải kinh ngạc, vui mừng? Người tu nếu tâm không bình
tĩnh, quá bi thương, tất bị loài bi ma ám nhập làm cho thương khóc mãi chẳng
thôi. Như quá vui mừng, cũng bị loài ma hoan hỷ ám nhập, làm cho cười mãi như
điên cuồng. Lại, hành giả niệm Phật tuy cũng mong được thấy thánh cảnh, nhưng
đừng quá mơ tưởng ước ao, bởi niệm tức là đã cầu rồi. Nên giữ tâm trạng điềm
tĩnh, "cầu mà không cầu, không cầu mà cầu", mới không bị sự cầu mong
làm xao động. Cứ chí tâm niệm Phật, lâu ngày niệm lực thanh tịnh đạo cảm ứng
giao thông, tất thấy được thánh cảnh. Nếu mãi để lòng mong ước, đó tức là vọng
tưởng, ma sẽ thừa cơ len lỏi vào để phá hoại.
* Vào khoảng Thanh mạt bước sang thời
Dân Quốc, ở Trung Hoa có ông Ngụy Tịch Phủ vốn là thiền hữu của cư sĩ Dương
Nhân Sơn, Ngụy Tịch Phủ tu tập Thiền Ðịnh gần ba mươi năm, một hôm bỗng được
Thiên Nhãn Thông. Ban sơ, ông thấy những vật ngoài tường vách, kế lại thấy rõ
những việc xung quanh vài ngoài mươi dặm như ở trước mắt. Biết mình đã đắc
Thiên Nhãn, ông rất kinh ngạc vui mừng! Ban đầu chỉ thấy thôi, sau lại nghe rõ
cả tiếng người và cầm thú ở ngoài xa. Đó là Thiên Nhĩ Thông tùy theo phát hiện.
Lần hồi những sự vật ngoài mấy ngàn dặm, cũng đều thấy nghe được. Sau đó những
việc chưa phát hiện, ông vẫn thấy nghe và hiểu biết rõ ràng. Đây là cảnh chứng
của Túc Mạng Thông. Bấy giờ phe đảng của Hồng Tú Toàn thuộc nhóm Thái Bình
Thiên Quốc chưa khởi sự đánh Thanh triều, nhưng Ngụy Tịch Phủ đã thấy trước chiến
cuộc xảy ra ở Quảng Tây lần hồi đến Tô Châu, nhơn dân chết vô số. Bởi mục kích
nhiều trạng thái chết chóc rất thê thảm, ông quá xúc động, gặp ai cũng thương
khóc bảo: "Đại loạn sắp đến nơi rồi, dân chúng sẽ bị tàn lục khổ sở đáng
thương xót, biết làm sao?" Lúc đó mọi người nghe ông nói thế, ai cũng cho
là điên. Cư sĩ Dương Nhân Sơn bấy giờ ở kinh sư thường gần gũi ông, nên biết rõ
việc ấy. Kế đó giặc xảy ra thật. Đến khi loạn bình rồi, Dương Nhân Sơn cư sĩ
gặp Ngụy Tịch Phủ ở Dương Châu mấy lần, thấy ông vẫn còn khóc lóc. Sau Nhân Sơn
gặp cư sĩ Đinh Phước Bảo, trần thuật lại sự việc và nói: "Đó là cảnh bi ma
ám nhập. Phàm người tu đến lúc đắc lực, Thiên Nhãn Thông ngẫu nhiên phát hiện,
nên soi về tự tánh, đừng để cho sắc trần làm lay chuyển. Nên biết các thần
thông ta vẫn sẵn có, không nên quá mừng rỡ kinh ngạc cho là sự lạ kỳ."
* Trong Trúc Song Tùy Bút Lục, Liên
Trì đại sư có thuật lại câu chuyện:
- Một thiền sư cất am tu gần khe suối.
Đêm nọ đang lúc tĩnh tọa, sư nghe thấy hai con quỷ ngồi bên bờ suối nói với
nhau rằng: "Ngày mai vào lúc xế chiều, có người đội mão sắt đi qua cầu
suối này, tôi sẽ dìm cho chết đắm để thay thế." Con quỷ kia bảo:
"Mừng giùm anh sẽ được thoát ly, tôi còn phải chịu lạnh lẽo chờ đến hai
năm sau mới có người thế mạng." Thiền sư nghe xong lưu ý. Trưa hôm sau,
một trận mưa to đổ xuống, nước dâng ngập cả suối cầu. Xế lại mưa còn lâm râm,
quả nhiên có người đầu đội cái chảo gang, lần dò muốn vượt qua cầu suối về nhà.
Sư liền đón lại thuật rõ sự việc nghe thấy. Người này cả kinh quay trở lại. Tối
hôm đó, thiền giả nghe con quỷ nói: "Sắp được thoát ly mà bị ông thầy tu
này phá hoại, đêm nay tôi phải báo thù mới được!" Sư nghe xong, liền nhiếp
tâm nhập chánh định, thấy quỷ ra vào và đi xung quanh am mấy lượt như có ý tìm
kiếm. Do sức chánh định, quỷ tìm mãi không thấy được thiền sư, sau cùng chán
nản bỏ đi.
Trên đây là hai câu chuyện "bi
ma" và "khước ma". Xin ghi lại cho chư liên hữu thêm phần ý thức
trên đường tu niệm.
Niệm Phật Thập
Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm
Ngã kim phát tâm, bất vị tự cầu, Nhơn-Thiên phước báu, Thanh-Văn, Duyên-Giác, nãi chí quyền-thừa chư vị Bồ Tát.
Duy y Tối Thượng thừa, phát Bồ-đề tâm, nguyện dữ pháp-giới chúng-sanh nhứt thời đồng đắc a-nậu-đa-la Tam-miệu tam-bồ-đề.
(Phật-tử…Pháp danh…nay phát tâm tu 42 THỦ-NHÃN ẤN-PHÁP, chẳng vì tự cầu phước báo “Nhơn-Thiên”, cùng quả Thanh-Văn, Duyên-Giác, nhẫn đến các quả vị Bồ-tát trong quyền-thừa.
Phật-tử chỉ y theo tối-thượng-thừa, phát tâm Bồ-đề, nguyện cùng chúng-sanh trong pháp-giới cùng một lúc đồng chứng đặng quả Vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.)
NGHI THỨC
HỒNG-DANH BỬU-SÁM
Đức Phật lại bảo ngài A Nan:
- “Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện”.
Quảng học thiện ký Khổng Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm bát nhã
Trí huệ thao thao như dũng tuyền.
(PC: Những chân ngôn sau đây, chỗ có vạch ngang dài (--) là chữ đọc kéo hơi dài ra, chữ có ngang vắn (-) là hai chữ đọc hiệp lại làm một, muốn cầu điều gì, đọc chân ngôn theo điều ấy).
- Này A Nan! Những việc có thể mong cầu như thế, kể có ngàn điều. Nay ta chỉ nói lược qua chút ít phần thôi.
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN
TỶ KHƯU-NI HENG YIN đã dịch ra ANH-VĂN.
Do cố hòa thượng THIỀN-TÂM đã dịch ra VIỆT-VĂN, trong KINH QUÁN ÂM ĐẠI-BI TÂM ĐÀ-RA-NI.
Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm phù đề
COMMENTARY :
Concerning the Great Compassion Mantra and the Forty-two Hands and Eyes, someone asked, “How did the Bodhisattva Who Regards the World’s Sounds get a thousand hands and eyes ?”
The Bodhisattva has great awesome virtue and spiritual penetrations. His thousand eyes came from cultivation of the Great Compassion Dharma, which obtains the forty-two Hands. Cultivating them succeed he thereby gained a thousand hands and eyes. Which he looks to see what trouble people have and pull out of suffering. Cultivating the Forty-two Hands and Eyes perfection, he became complete with a thousand Hands and Eyes.
No matter who you are, if you meet the Great Compassion Dharma and cultivate the Forty-two Hands and Eyes will obtain a thousand hands and eyes, just like the Bodhisattva.
Dharmas of seeking refers to the Forty-two Hands and Eyes mention above. There are actually more then thousand, but we are just mentioning them in general.
Liên quan đến Chú Đại Bi và Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn Ấn Pháp, có người hỏi: “Làm thế nào mà Bồ Tát Quán Thế Âm có được ngàn Tay ngàn Mắt?”
Hòa Thượng Tuyên Hóa trả lời rằng: “Vị Bồ tát đó có đại Uy Đức và Thần Thông không thể nghĩ bàn được . Ngàn Tay ngàn Mắt của Ngài là do trì Chú Đại Bi và 42 Thủ Nhãn Ấn Pháp. Khi thành tựu PHÁP nầy, thì có được ngàn Tay ngàn Mắt. Ngàn Mắt để Quán xem sự khổ nạn của chúng sanh và ngàn Tay để cứu độ họ mau thoát khỏi mọi khổ đau. Tu viên mãn Bốn mươi hai Tay Mắt, thì sẽ thành tựu ngàn Tay ngàn Mắt.
BẤT LUẬN QUÝ VỊ LÀ AI, nếu tu theo Pháp Đại Bi và 42 Tay Mắt của Bồ Tát Quán Thế Âm trong KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI, thì sẽ có được NGÀN TAY NGÀN MẮT giống như BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM vậy”.
Những việc có thể mong cầu, được đề cập trong 42 Tay Mắt ở trên, thật ra có hơn ngàn việc, như ở đây chỉ nói ít phần mà thôi.
42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp
Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp
Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp
Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp
15. The Shield Hand and Eye
Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp
http://www.drbachinese.org/online_reading/sf_others/DaBeiJou/page64.htm
64. Tất Ra Tăng A Mục Khê Da
Hóa hiện Dược Vương đại bồ tát
Trừ “ÔN” diệt “DỊCH” cứu hằng sa
Phổ lịnh hữu tình ly tật khổ
Cam lộ biến sái hàm thức nha
NAM-MÔ DƯỢC-VƯƠNG BỒ-TÁT (3 LẦN)
MA-HA-TÁT (1 LẦN)
Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Sáu
(1 LẦN)
Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]
Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.
[
ÔN là bệnh truyền nhiễm.
DỊCH là bệnh lây cho mọi người.
CHO NÊN, NẾU QÚI VỊ MUỐN DIỆT TRỪ BỊNH ÔN DỊCH THÌ PHẢI TRÌ TỤNG
“Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp”
]
17. The Jade Ring Hand and Eye
Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp
18. The White Lotus Hand and Eye
Bạch-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
19. The Blue Lotus Hand and Eye
Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
20. The Jeweled Mirror Hand and Eye
Bảo-Kính Thủ Nhãn Ấn Pháp
21. The Purple Lotus Hand and Eye
Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
24. The Kundi Hand and Eye
Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp
25. The Red Lotus Hand and Eye
Hồng-Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
26. The Jeweled Halberd Hand and Eye
Bảo-KíchThủ Nhãn Ấn Pháp
27. The Jeweled Conch Hand and Eye
Bảo-LoaThủ Nhãn Ấn Pháp
28. The Skull Bone Staff Hand and Eye
Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp
29. The Recitation Beads Hand and Eye
Sổ-ChâuThủ Nhãn Ấn Pháp
30. The Jeweled Bell Hand and Eye
Bảo-ĐạcThủ Nhãn Ấn Pháp
31. The Jeweled Seal Hand and Eye
Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp
32. The Chu Shih Iron Hook Hand and Eye
Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp
36. The Transformation Palace Hand and Eye
Hóa-Cung-ĐiệnThủ Nhãn Ấn Pháp
37. The Jeweled Sutra Hand and Eye
Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp
38. The Non-retreating Gold Wheel Hand and Eye
Bất-Thối Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Comments
Post a Comment