Giới-Quang ấy chẳng phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng và
đen, chẳng phải sắc-pháp, cũng chẳng phải tâm-pháp, chẳng phải pháp-hữu,
pháp-vô, cũng chẳng phải pháp nhân, pháp quả. Nó chính là bổn-nguyên của chư Phật, là căn-bổn của chúng Phật-Tử.
Vì thế nên chúng Phật-Tử phải thọ-trì, phải đọc tụng, phải học kỹ giới-pháp
nầy.
Chúng Phật-Tử lóng nghe ! Nếu là người thọ giới Bồ-Tát nầy, không luận là Quốc-Vương Thái-Tử, các Quan-chức hay Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, không luận
là chư Thiên cõi Sắc, cõi Dục, không luận là hàng thứ-dân, huỳnh-môn, dâm-nam,
dâm-nữ hay hàng nô-tỳ, cũng không luận là tám bộ quỷ-thần, thần Kim-Cương hay
loài súc-sanh nhẫn đến kẻ biến-hóa hễ
ai nhận hiểu được lời truyền giới của Pháp-Sư thời đều thọ đặng giới, và đều gọi là thanh-tịnh thứ
nhất.
(KINH PHẠM VÕNG)
Tại sao lại làm thân rồng?
Trong
quá khứ họ đã tu đạo, nhưng tu theo kiểu “thừa
cấp giới hoãn”, nghĩa là tu các thừa thì
gấp gáp, mà trì giới thì trễ nãi. Chữ
“thừa” ở đây là chỉ Tiểu thừa, Đại thừa. Họ nguyện tu các pháp Đại thừa, nguyện
tinh tấn, dũng mãnh, nhưng lại muốn đi đường tắt cho mau, muốn được thần thông. Do đó họ đi khắp nơi tìm Phật Pháp, kiếm Mật tông và chuyên tu theo tông này.
Cách
thức họ tu như thế nào? Họ không chú trọng giới luật, không giữ giới. Những người giữ giới phải luôn luôn theo đúng câu:
“Việc ác thì tránh, việc lành thì làm”, trong khi đó, họ ăn cắp đầu lâu của xác chết để luyện công, niệm chú. Có khi họ ăn
cắp bài vị tổ tiên của gia đình người ta, rồi biến các vong linh đó làm quỷ để
sai khiến.
Chữ
“thừa cấp” là nói về sự tinh tấn,
dũng mãnh của họ trong việc luyện công, đặng có thể tiến bộ mau như hỏa tiễn
vậy. “Giới hoãn” là nói họ không coi
trọng giới luật, mặc sức hành động; kể cả các giới như giết hại, ăn cắp, dâm
dục, họ đều không tuân thủ.
Vậy
thì còn nói gì nữa! Quý vị coi! Họ ăn cắp đầu lâu, ăn cắp bài vị tổ tiên của
nhà người ta, lấy cả mấy cây trồng trên mộ phần để luyện phép; vì tu pháp với
tâm tham như vậy, do đó mới có câu “thừa cấp, giới hoãn”. Vì
thế mà phải đọa mang thân rồng, tuy có thần thông, nhưng vẫn là loài súc sinh.
Tuy nhiên, rồng cũng là loại
linh vật, có thể thu nhỏ, có thể hiện lớn, khi ẩn khi hiện vô chừng. Có điều
chúng rất sợ ánh sáng mặt trời, bởi
một khi có ánh sáng chiếu tới chúng cảm thấy khổ sở như bị lửa đốt thân, khiến chúng phải đổ mưa xuống, giống
như người ta tắm gội vậy.
(Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện
Công Đức Kinh Thiển Thích
Đời Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng
chiếu dịch
Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng tại Kim Luân
Thánh Tự, Los Angeles, California, Hoa Kỳ năm 1983.)
PHẬT DẠY TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM
(TRONG KINH LĂNG NGHIÊM NÓI :
“NGƯỜI TU “CHÁNH ĐỊNH” TAM MA ĐỊA, TRƯỚC HẾT PHẢI BIẾT VỌNG TÂM, CHƠN TÂM. RỒI
CHỌN PHƯONG PHÁP VÀO CHƠN TÂM : “NHĨ CĂN VIÊN THÔNG” CHẲNG HẠN. SAU CÙNG PHẬT DẠY
PHẢI NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT VÀ TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM, MỚI KHÔNG BỊ LẠC VÀO 5O LOẠI
MA CHƯỚNG (NGŨ ẤM MA), TRONG KHI TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG.)
A Nan! Ngươi
hỏi cách nhiếp tâm, trước ta đã nói về pháp môn vi diệu, tu tập Tam Ma Địa.
Người cầu đạo bồ đề trước tiên phải giữ bốn
thứ luật nghi (DÂM, SÁT,
ĐẠO, VỌNG) kể trên, trong sáng như
băng tuyết để làm căn bản, tự nhiên chẳng sanh tất cả nhánh lá; nhờ đó, ba ý
nghiệp và bốn khẩu nghiệp ắt chẳng có nhân để sanh khởi.
A Nan, nếu
giữ kỹ bốn giới chẳng bỏ sót, tâm còn chẳng duyên theo Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, thì tất cả ma sự làm sao còn sanh
khởi được?
Nếu có tập khí xưa chẳng thể diệt trừ, ngươi dạy người ấy
nhất tâm tụng trì “Phật Đảnh Quang Minh Ma
Ha Tát Đát Đa Bát Đát La Vô Thượng Thần Chú” của ta, ấy là cái tâm chú do
Vô Kiến Đảnh Tướng Như Lai, từ nơi đảnh đầu hiện ra Vô Vi Tâm Phật, ngồi trên
bửu liên hoa mà thuyết.
Ngươi và Ma Đăng Già, do tập khí ân ái từ nhiều
kiếp, ta vừa tuyên thuyết thần chú, liền khiến Ma Đăng Già thoát hẳn lòng yêu, đắc quả A La Hán. Nàng kia là dâm nữ, chẳng có tâm tu hành, nhờ thần
lực thầm giúp, được mau chứng vô học, huống là hàng Thanh Văn các ngươi trong
hội, cầu tối Thượng Thừa, nhất định thành Phật, cũng như bụi bay theo chiều
gió, đâu có ngăn ngại gì?
GIỚI LUẬT LÀ THỌ MẠNG CỦA PHẬT PHÁP
Hòa thượng Thích
Trí Tịnh
…
Như trong luật Ðức
Phật có nói: Tại sao người thọ giới được
đắc giới? Vì rằng, người thọ giới ở trước giới. Sự truyền giới mà lãnh
giới, nhờ có tâm kính trọng hết lòng nên
đắc giới, phải nhớ điều đó.
…
Và tôi (Hòa thượng Thích Trí Tịnh) cũng xin nhắc tiếp
theo là sau khi thọ giới rồi thì phải cố
gắng học giới cho rành, nhờ có học
hiểu ghi nhớ nên mới có thể hành trì đúng với giới luật được.
Quí vị đã có sự học
hiểu, hành trì đúng như giới luật thì quí vị đã nắm được bước đầu tiên để bước lên bậc Hiền Thánh giải thoát hết khổ rồi, và
cũng chính nơi giới luật nó làm nấc thang đầu tiên cho quí vị sẽ đến nơi hoài
bảo duy nhất của Ðức Phật ra đời là muốn cho tất cả mọi người, tất cả chúng
sinh khai thị ngộ, nhập Phật tri kiến để
thành Phật như Phật không khác.
…
ĐÂY CŨNG LÀ LỜI
PHẬT DẠY, KHI NGÀI SẮP VÀO NIẾT-BÀN.
1) LẤY GIỚI-LUẬT
LÀM THẦY
2) AN TRỤ Ở TỨ NIỆM XỨ : THÂN, THỌ,TÂM, PHÁP. (THÂN
bất tịnh, THỌ thị khổ,TÂM vô thường, PHÁP vô ngã).
3) LẤY “NHƯ THỊ TÔI NGHE”, Ở ĐẦU KINH VĂN, KHI
KIẾT TẬP KINH ĐIỂN.
4) ĐỐI VỚI TỶ-KHƯU
ÁC TÁNH, THÌ PHẢI IM LẶNG ĐỪNG ĐẾ Ý
TỚI HỌ. ĐỂ GIÚP HỌ CÓ THỜI-GIAN PHẢN
TỈNH TRỞ LẠI.
Tóm lại, nếu
Qúy-vị tu hành mà không giữ giới-luật, bây giờ thấy lỗi lầm muốn sám hối, phát
nguyện thọ trì giới luật trở lại, như nghiệp lực qúa mạnh, làm hoài mà không được
(LỰC BẤT TÙNG TÂM), thì Qúy-vị nên thường
trì tụng “Cu-thi-thiết-câu thủ nhãn ấn pháp”, thì TÂM, Ý và THỨC của Qúy-vị sẽ bị CÂU MÓC TRỞ LẠI ở trong các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, nói nín, động
tịnh đều được TỰ-TẠI
AN-NHIÊN, Y theo TAM-BẢO mà tu hành, LẤY GIỚI-LUẬT LÀM THẦY, có vậy thì mới có đủ ĐỊNH-LỰC và KHẢ NĂNG, BẢO HỘ ĐẠO
TRÀNG NHƯ CHƯ LONG VƯƠNG VẬY.
Kệ tụng:
Cấp
Tu, Khoái Độ chư long vương
Quả Vãng, Pháp Đại các thiện tường
Quy y tam bảo hộ đạo tràng
Hành trụ tọa ngọa vĩnh an khang.
Cu-Thi-Thiết-Câu
Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ
Ba Mươi Hai
Địa Rị Ni [31]
Án-- a rô rô, đa ra ca
ra, vỉ sa duệ.
Nẳng
mồ-- tát-phạ hạ.
---o0o---
31) Địa Rị Ni
Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì
tụng câu chú Địa Rị Ni, thì “NGÀI SƯ-TỬ VƯƠNG-BINH”
sẽ “XUẤT HIỆN”. Đây là “HIỆN THÂN” của Bồ-tát
QUÁN-THẾ-ÂM thường đi từng du khắp 10 phương, để xem xét bảo hộ NGƯỜI TRÌ THỦ
NHÃN NẦY.
Vị bồ tát nầy rất DÕNG MÃNH, thường trì “CU-THI-THIẾT-CÂU THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, giúp cho
Qúi vị mau thành tựu “GIỚI BA-LA-MẬT”.
NGÀI
SƯ-TỬ VƯƠNG-BINH
(
Thường TRÌ “CU-THI-THIẾT-CÂU THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, giúp cho Qúi
vị mau thành tựu “GIỚI BA-LA-MẬT”.
Và ngược lại nếu “QÚI
VỊ” Thường TRÌ “CU-THI-THIẾT-CÂU THỦ NHÃN ẤN PHÁP”,
thì
Qúi vị là “HÓA THÂN” của NGÀI SƯ-TỬ
VƯƠNG-BINH,nghĩa là cũng đạt được như
Ngài vậy.)
Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “CU-THI THIẾT-CÂU THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì
“NGÀI SƯ-TỬ VƯƠNG-BINH” sẽ XUẤT HIỆN, XÉT
NGHIỆM NGƯỜI TRÌ-CHÚ, dù cho một lúc có đến “NGÀN, VẠN…” chúng sanh “ĐỌC TỤNG” THỦ NHÃN NÀY, NGÀI ĐỀU HAY BIẾT,
LÀM CHO TẤT CẢ ĐỀU VIÊN MÃN THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC, MAU THÀNH TỰU ĐƯỢC QỦA BỒ-TÁT “BẤT-THỐI-CHUYỂN”.
Kệ tụng
:
SƯ-TỬ
VƯƠNG-BINH nghiệm tụng độc
Thiên
biến vạn biến vô lượng số
Đa đa
ích thiện công viên mãn
Thành
tựu bồ tát thắng quả thù
KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”
HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN
KỆ TỤNG
HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng
31. Địa lỵ ni
Địa
lỵ ni. Hán dịch rất nhiều nghĩa. Thứ nhất là “thậm dõng” nghĩa là dũng khí mãnh
liệt. Cũng có nghĩa là “tịnh diệt hoặc khiết tịnh”.
“Thậm
dũng” là dạng tướng động.
“Tịnh diệt” là dạng tĩnh.
Còn dịch là “Gia trì và thôi khai”.
-
“Gia trì” có nghĩa là làm cho các ác pháp đều được chuyển hoá, hướng về phụng
hành theo thiện pháp.
-
“Thôi khai” là làm cho các nghiệp chướng, tai nạn của chúng sinh đều được tiêu
trừ.
Đây
là Cu thi thiết câu thủ nhãn ấn pháp.
Gọi tắt là thiết câu ấn pháp, có công năng làm cho tất cả quỷ thần, thiên long
bát bộ đến hộ trì cho hành giả. Nếu quí vị công phu hành trì thành tựu thủ nhãn
này, thì có thể bảo thiên long làm mưa và sẽ có mưa ngay, nếu hành giả cần có
gió, họ sẽ làm ra gió ngay, khi hành giả muốn mưa gió đừng hoành hành thế gian
nữa, mưa gió sẽ hết ngay.
Quí
vị sẽ nói: “Tôi không tin như vậy”. Đúng vật! Đó chính là lý do mà tôi muốn nói
cho quí vị nghe, tất cả chỉ là vì quí vị không tin. Không có niềm tin và không
ở trong cảnh giới này thì khó lòng hiểu nổi.
Nếu
muốn, quí vị có thể hỏi những người vừa mới từ Đài Loan trở về ngày hôm nay về
cơn mưa ở Đài Loan. Khi tôi nói chuyện với Phật tử ở Đài Loan qua điện thoại,
họ cho biết trời đang mưa và rất lạnh. Họ mong muốn thời tiết được ấm áp và bớt
mưa. Tôi bảo họ hãy yên tâm, chuyện đó sẽ xảy ra. Họ lại thắc mắc:
- Sư phụ có thể khiến
trời hết mưa hay sao?
Tôi chỉ nói vắn tắt:
- Quí Phật tử hãy đợi
xem trời có tạnh mưa hay không?
Ngay
khi tôi vừa cúp điện thoại, thì trời bắt đầu tạnh ráo. Họ đều cho đó là chuyện
lạ kỳ. (Những ai đã đến Đài Loan năm 1969 để dự giới đàn, đều có thể chứng kiến
chuyện này. Trời mưa dầm ở Keelong Đài Loan ít nhất cũng là 48 ngày, nhiều nhất
là 53 ngày.
Chúng tôi đang ở Đài Loan để thọ giới. Cả tự viện không còn chất
đốt, một khi củi đã bị ướt rồi, thì không còn cách nào để sưởi cho khô lại
được. Tuy nhiên,vào sáng ngày 18/4 như đã nói ở trên, đúng ngay lúc chúng tôi
vừa chấm dứt cuộc điện đàm thì mặt trời vừa hiện ra, bầu trời trở nên sáng
trong và khí trời trở nên ấm áp liền. Chú thích của người dịch từ Hoa văn sang
Anh Ngữ).
Thực
ra, đó chẳng phải là gì khác, chính là năng lực của thiết câu thủ nhãn ấn pháp.
Quí vị chỉ cần kiết ấn và gọi: “Thiên long, đừng làm mưa nữa!” thì trời sẽ dứt
mưa ngay. Loài rồng sẽ chấp hành theo lệnh của quí vị và chỉ khi quí vị đã
thành tựu ấn pháp này và đã thông thạo thiết câu thủ nhãn. Rồng phun mưa sẽ
tuân theo ấn pháp này và đình chỉ việc làm mưa liền.
Quí
vị sẽ nghĩ là tôi nói đùa nhưng đúng là như vậy. Bây giờ, tôi đang giảng kinh
cho quí vị nghe và tôi đang nói với quí vị bằng chân ngữ. Đây không phải là
chuyện nói đùa.
ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
(TAM VÔ LẬU HỌC : GIỚI, ĐỊNH, HUỆ)
Đức Phật bảo A-Nan: “Ông thường nghe trong giới luật của Như Lai, giảng bày ba
nghĩa quyết định của việc tu hành. Thu
nhiếp tâm ý gọi là giới, nhân giới phát định lực, nhân định có trí huệ. Đó gọi
là ba môn học vô lậu.
1.
ĐOẠN TRỪ
DÂM TÂM
A-Nan vì sao thu nhiếp tâm niệm, Như Lai gọi
là giới? Nếu các chúng sinh trong thế giới lục đạo tâm không dâm dục, thì sẽ
không bị tương tục trong sinh tử.
Ông tu tam-muội, cốt là để thoát khỏi trần
lao. Nếu không trừ lòng dâm, không thể ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí
và thiền định hiện tiền, nếu không đoạn
trừ tâm dâm, chắc lạc vào ma đạo. Hạng trên thành ma vương, hạng giữa thành
ma dân, hạng dưới thành ma nữ.
Các loài ma kia cũng có đồ chúng. Đều tự xưng
đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, có nhiều loại ma dân nầy
náo loạn trong thế gian. Chúng gây nhiều việc tham dâm, xưng là thiện tri thức,
khiến cho chúng sinh rơi vào hầm sâu ái kiến, lạc mất đường đến giác ngộ.
Ông dạy người đời tu tam-ma-địa, trước hết
phải đoạn trừ tâm dâm. Đó là lời dạy bảo thanh tịnh, quyết định thứ nhất của
các Đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời trước.
Thế nên, A-Nan, nếu không đoạn tâm dâm mà tu thiền định, cũng như nấu cát mà mong thành
cơm. Trải qua trăm ngàn kiếp, cũng chỉ là cát nóng. Vì sao? Vì đó chẳng
phải là bản nhân của cơm, đó chỉ là cát đá.
Ông đem thân dâm dục cầu diệu quả chư Phật, dù
được diệu ngộ, cũng chỉ là gốc dâm. Cội gốc đã thành dâm, thì phải trôi lăn
trong tam đồ, chắc không ra khỏi được. Còn đường nào để tu chứng niết-bàn của
Như Lai?
Ắt phải khiến cho thân tâm đều đọan trừ hết
căn dâm. Tánh đoạn cũng trừ. Mới mong chứng quả bồ-đề của chư Phật.
Như
lời Như Lai nói đây, chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy, tức
là lời ma ba-tuần nói.
2.
PHẢI ĐOẠN
TRỪ TÂM SÁT HẠI
Lại nữa, A-Nan, nếu các chúng sinh trong sáu
cõi khắp các thế giới, nếu họ không có tâm sát hại, ắt sẽ không tương tục theo
dòng sanh tử.
Ông tu tam-muội, cốt là ra khỏi trần lao. Tâm
sát hại không trừ, thì không thể nào ra khỏi trần lao được.
Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu như không đoạn trừ tâm sát hại, ắt rơi
vào thần đạo. Bậc cao thì làm đại lực quỷ. Bậc trung thì làm quỷ phi hành
dạ-xoa và các loài quỷ soái. Bậc thấp thì làm quỷ địa hành la-sát.
Các loài quỷ thần ấy cũng có đồ chúng. Chúng
đều tự cho rằng mình đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, trong thời mạt pháp,
nhiều loại quỷ thần nầy sôi nổi trong thế gian. Chúng tự tuyên bố rằng ăn thịt sẽ chứng được đạo bồ-đề.
A-Nan, Như Lai cho phép hàng tỷ-khưu ăn năm
loại tịnh nhục. Thịt ấy đều do thần lực của Như Lai hóa ra, vốn chúng không có
mạng căn. Xứ Bà-la-môn của các ông, đất đai phần nhiều ẩm thấp và nóng, lại
thêm cát đá, rau cỏ không sinh được. Như Lai dùng thần lực từ bi gia hộ. Do tâm
đại từ bi giả gọi là thịt. Các ông cũng nhận được vị như thịt. Cớ sao sau khi
Như Lai diệt độ, những người ăn thịt chúng sinh lại xưng là Thích tử?
Các ông nên biết những người ăn thịt đó, dù
tâm được khai ngộ, như tam-ma-đề, đều là loài đại la-sát. Khi quả báo hết, lại
phải chìm đắm trong biển khổ sinh tử. Họ chẳng phải là đệ tử của Phật. Những
người ấy giết hại, thôn tánh lẫn nhau, ăn nuốt nhau không thôi. Những người như
vậy làm sao ra khỏi ba cõi?
Ông dạy người đời tu pháp tam-ma-địa, phải
đoạn trừ việc sát sanh. Đó là lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ
hai của các Đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời trước.
Thế nên A-Nan, nếu không đoạn trừ việc sát hại
mà tu thiền định, ví như có người tự bịt tai mình, rồi kêu lớn tiếng, mà mong
mọi người chẳng nghe tiếng mình. Loại người nầy gọi là muốn dấu nhưng càng lộ
bày.
Tỷ-khưu thanh tịnh và các vị Bồ Tát khi đi
trên đường còn không đạp cỏ non, huống là dùng tay nhổ. Tại sao thực hành tâm
đại bi mà lại lấy máu thịt chúng sinh làm thức ăn?
Nếu các tỷ-khưu không mặc tơ lụa, là lượt của
phương đông, và không dùng giày dép, áo cừu, áo len, hay các thứ sữa, lạc, đề
hồ. Những tỷ-khưu ấy, thật là giải thoát trong pháp thế gian. Trả hết nợ cũ
xong, sẽ không vào trong ba cõi nữa.
Tại sao dùng những bộ phận thân thể chúng
sinh, đều có ảnh hưởng đến chúng. Như con người ăn trăm giống cốc loại trong
đất, thì chân không rời đất. Dứt khoát thân tâm mình, đối với thân thể hay chi
phần của chúng sinh, quyết không dùng, không ăn không mặc. Những người như vậy,
Như Lai mới thật xem là giải thoát.
Như
lời Như Lai nói đây, chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy, tức
là lời ma ba-tuần nói.
3.
DỨT TRỪ
TÂM TRỘM CẮP
Lại nữa A-Nan, nếu như chúng sinh trong thế
giới lục đạo, tâm không trộm cắp, thì họ sẽ không bị tương tục trong dòng luân
hồi sinh tử.
Ông tu tam-muội, cốt là ra khỏi trần lao. Tâm
trộm cắp không trừ, thì không thể nào ra khỏi trần lao được.
Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ tâm trộm cắp, ắt phải
rơi vào tà đạo. Hạng trên thành tinh linh, hạng trung thành yêu mị, lớp
dưới thành người tà đạo, bị yêu mị gá vào.
Các nhóm tà đạo kia cũng có đồ chúng. Họ đều
tự xưng đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, trong thời mạt pháp,
có nhiều loại yêu ma tà đạo ấy sôi nổi trong thế gian, lén lút gian dối xưng là
thiện tri thức. Họ đều tự xưng đã được pháp thượng nhân. Dối gạt kẻ không biết,
dọa dẫm khiến họ mất lòng tin. Chúng đi
đến đâu, gia đình người ta đều bị hao tán.
Như Lai dạy hàng tỷ-khưu theo thứ tự khất
thực, là khiến họ xả trừ lòng tham, thành tựu đạo bồ-đề. Các hàng tỷ-khưu không
tự nấu ăn, gửi cái thân sống nhờ như khách trọ trong ba cõi. Hiện thân một lần
qua lại, đi rồi không trở lại nữa.
Tại sao loại giặc ấy lại mượn y của Phật, buôn
bán Như Lai, tạo vô số nghiệp, nói rằng đó đều là Phật pháp. Lại chê hàng xuất gia thọ giới tỷ-khưu là
đạo Tiểu thừa. Do chúng làm cho vô lượng chúng sinh mắc phải nghi lầm, nên
sẽ bị đoạ vào địa ngục vô gián.
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có tỷ-khưu phát
tâm quyết định tu tam-ma-đề. Có thể trước hình tượng Như Lai, tự mình thắp một
ngọn đèn, đốt một ngón tay; hay ở trên thân đốt một liều hương. Như Lai nói
người nầy, nợ nần từ kiếp lâu xa, nay được trả hết trong một đời, xa lìa thế
gian, vĩnh viễn thoát khỏi các lậu hoặc. Người ấy tuy chưa hiểu rõ đạo vô
thượng giác, nhưng đối với Phật pháp đã có tâm quyết định.
Nếu không gieo được cái nhân xả thân nhỏ bé
ấy, dù có thành đạo vô vi, cũng phải sanh lại làm người, hoàn trả các nợ cũ,
như quả báo ăn lúa ngựa của Như Lai.
Ông dạy người đời, tu pháp tam-ma-địa, sau
nữa, dứt trừ tâm trộm cắp. Đó gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ
ba của các Đức Phật Như Lai Thế Tôn trong quá khứ.
Cho nên A-Nan, nếu không dứt trừ tâm trộm cắp
mà tu thiền định, cũng như rót nước vào bình thủng, mà mong cho đầy. Dù trải
qua nhiều kiếp số như vi trần, rốt cục vẫn không đầy được.
Nếu các tỷ-khưu, ngoài y bát ra, không tích
trữ mảy may. Khất thực có thừa, bố thí cho chúng sinh đói. Nơi hội lớn đông
người, chắp tay lễ bái đại chúng. Nếu có người đánh mắng, xem như khen ngợi
mình. Xem thân thịt máu xương của mình giống như thân của chúng sinh. Nếu không
đem lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai làm chỗ tỏ ngộ của mình, khiến cho kẻ sơ
học khỏi bị lầm lạc, thì Như Lai ấn chứng người ấy chân thực được tam-muội.
Như
lời Như Lai nói đây, tức là lời của chư Phật. Nếu không đúng như lời nói đó,
tức ma ba-tuần nói.
4.
DỨT TRỪ
VỌNG NGỮ
A-Nan, chúng sinh trong thế giới lục đạo như
thế, tuy thân tâm không còn sát đạo dâm, ba hạnh đều đã viên mãn, nếu mắc phải
đại vọng ngữ, thì tam-ma-đề không được thanh tịnh, sẽ thành giống ma ái kiến,
và làm mất chủng tử Như Lai.
Chưa
được gọi là đã được, chưa chứng nói rằng đã chứng. Hoặc để mong cầu thế gian Tôn trọng tột bậc,
bảo người khác rằng: Nay tôi đã đắc quả Tu-đà-hoàn quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm,
được đạo A La Hán, Bích-chi Phật thừa, hay các quả vị Bồ Tát trong Thập địa hay
trước Thập địa. Mong được mọi người lễ bái, tham được cúng dường.
Những
kẻ nhất-điên-ca ấy tự tiêu diệt chủng tử Phật. Như người dùng dao chặt cây đa-la. Phật ấn ký
người ấy mất hẳn thiện căn, không còn chánh tri kiến, chìm đắm trong ba bể khổ,
không thành tựu được pháp tam-muội.
Sau khi Như Lai diệt độ, dạy hàng A La Hán và Bồ Tát hãy ứng thân sinh trong đời mạt pháp, hiện
ra nhiều hình tướng khác nhau để độ những chúng sinh còn trong vòng luân hồi.
Hoặc
làm sa-môn, cư sĩ bạch y, vua chúa, quan lại, đồng nam đồng nữ. Như vậy cho đến
làm dâm nữ, làm người quả phụ, người gian dối, trộm cắp, người hàng thịt, kẻ
buôn bán. Để cùng với họ đồng sự, xưng tán Phật thừa, khiến cho thân tâm họ
nhập vào tam-ma-địa.
Rốt ráo không tự bảo mình thật là Bồ Tát, là A
La Hán. Khinh xuất nói với người chưa học, tiết lậu mật nhân của Phật.
Chỉ
trừ khi đến lúc lâm chung, âm thầm có lời di chúc. Tại sao những người ấy lừa gạt chúng sinh,
thành tội đại vọng ngữ.
Ông dạy người đời tu tam-ma-địa, sau rốt phải
đoạn trừ nói lời đại vọng ngữ. Đó là lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh, quyết định
thứ tư của các Đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời trước.
Thế nên A-Nan, nếu không đoạn trừ lời đại vọng
ngữ, như khắc phân người làm hình cây chiên đàn, mà muốn được hương thơm. Thật
không có chuyện đó.
Như Lai dạy hàng tỷ-khưu, lấy trực tâm làm đạo
tràng. Trong các hành xử từ bốn uy nghi, còn không được hư dối. Làm sao có kẻ
tự xưng là đã được pháp thượng nhân?
Ví như người bần cùng, tự xưng là đế vương, tự
chuốc lấy sự tru diệt. Huống gì là ngôi vị pháp vương, sao dám xưng càn! Nhân đã không thật, quả ắt quanh co.
Cầu đạo bồ-đề của Phật, như người muốn cắn rốn, làm sao thành tựu được?
Nếu hàng tỷ-khưu, tâm thẳng như dây đàn, hành
xử mọi việc chân thật, nhập vào tam-ma-đề, ắt hẳn không có ma sự. Như Lai ấn
chứng cho người nầy, thành tựu được vô thượng trí giác của hàng Bồ Tát.
Như
lời Như Lai nói đây, chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy, tức
là lời ma ba-tuần nói.
Giới Luật Là Thọ Mạng Của Phật Pháp
Hòa thượng
Thích Trí Tịnh
(bài
ban từ trong Ðại giới đàn Thiện Hòa, ngày 01-04-1993 tại Ðại Tòng Lâm, Bà Rịa
Vũng Tàu)
---o0o---
Ðức Phật là một
đấng đại Từ Bi, Ngài xem tất cả chúng sinh mọi loài như con một. Lòng yêu thương chúng sinh của Ðức Phật
trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, như mẹ thương con, chỉ mong làm sao cho con mình
được hết tất cả khó và hưởng tất cả vui, cho nên trong Kinh Hoa Nghiêm nói:
"Ðức Phật không có cái tâm tưởng nào khác ngoài tâm đại Từ
đại Bi, ban vui cứu khổ cho tất cả chúng sinh".
Vì vậy Ðức Phật
ra đời, cũng không ngoài mục đích ấy, vì thương chúng sinh như con một mà phải
ban vui cứu khổ, và trong kinh Pháp Hoa
Ðức Phật nói rõ:
"Ðức Phật ra đời vì muốn cho tất cả chúng sinh được Khai Phật
tri kiến, Thị Phật tri kiến, Ngộ Phật tri kiến và Nhập Phật tri kiến, được
thành Phật như Phật không khác".
Chỉ một hoài
bão duy nhất đó mà Ðức Phật mới ra đời và Ðức Phật cũng nói thập phương Chư Phật
ra đời cũng một hoài bão duy nhất đó mà thôi.
Do đó, tất cả
Pháp của phật nói ra cho chúng ta cũng như tất cả chúng sinh, những người có thể
tin được, có thể làm được cũng đến nơi mục đích là hết khổ được an vui cứu cánh
giải thoát, đầy đủ trí Huệ đại Từ Bi như Ðức Phật không khác. Cho nên bổn phận
hôm nay của chúng ta cũng như các vị Giới Sư, chỉ vì mục đích duy nhất là đem
Giáo Pháp của Phật truyền nói lại cho những người kế thừa mình để cho Chánh
Pháp của Phật mãi mãi lưu truyền ở thế gian không dứt.
Ðể chi? Ðể
cho những người hiện tại cũng như tất cả những người ở tương lai và rộng đến tất
cả mọi loài chúng sanh đều được nhuần nơi chánh Pháp (ban vui cứu khổ) để hết
khổ và được an vui. Như Ðức Phật dạy:
"Sau khi Phật diệt độ, chúng ta phải coi Giới luật là bậc
Thầy sáng suốt, cũng như Phật còn tại thế không khác".
Bởi vậy, sau
Phật diệt độ, nhất là trong thời kỳ mạt Pháp nầy, nếu chúng ta có một tâm giữ
gìn được Chánh Pháp của Ðức Như Lai để làm lợi ích cho tất cả mọi người, mọi
chúng sinh đều được an vui hết khổ, thì trước hết phải giữ gìn giới luật của Ðức
Phật còn tồn tại ở thế gian, giới luật
có tồn tại ở thế gian thì mới có thể làm nền móng cho Chánh Pháp được tồn tại.
Muốn giữ gìn giới luật được tồn tại tại thế gian thì phải thực
hành nơi giới luật của Phật chế ra lúc Phật còn tại thế.
Do đó, mà được
truyền nối đến ngày nay. Thế nên ở nơi chúng ta là người đã thọ giới và thực
hành theo giới, mà phải đem Giới luật ấy mà ban bố lại cho những người hậu lai
để có sự kế thừa liên tục. Vì vậy, nên ta phải làm Giới Sư, phải truyền giới để
cho giới đó được giới, học giới và giữ giới.
Các vị giới tử
đó khi đã có giới rồi thì cũng sẽ truyền lại cho những người khác cũng được thọ
giới, học giới và giữ giới. Ðược như vậy thì giới Pháp của Ðức Phật mới có thể
tồn tại, mà Giới Pháp tồn tại thì Phật Pháp mới còn, đây là lời nói ở trong
Kinh như vậy.
Vì sự truyền
giới nó rất quan trọng nên tôi xin nhắc nhở cho toàn thể quý vị Giới Sư rằng: Dầu
sao đi nữa cũng không nêu ở hoàn cảnh hay là bất cứ những điều chi đó. Mà nó có
thể chi phối được mình không làm đúng theo giới luật, nhưng về phần truyền giới
mình phải làm sao, nếu không được trọn vẹn hết thì cũng có một phần lớn để hoàn
thành những điều ở trong luật chỉ dạy truyền giới phải như thế nào. Vì sự truyền giới có đúng Pháp thì người thọ
giới mới được đắc giới.
Như vậy, giới
luật đầu tiên là ở nơi người thọ giới, mà người thọ giới chưa được đắc giới,
thì về sau làm sao có được giới thể trang nghiêm có giới đức thanh tịnh được,
do đó sự truyền giới là mối đầu tiên hết, nên phải làm sao dầu không thể được
hoàn toàn viên mãn, nhưng cũng phải làm sao để hoàn thành những điều quan trọng
nhất mà trong giới luật đã nêu ra cho những người có bổn phận truyền giới.
Tôi cũng cầu nguyện cho toàn thể giới sư lục căn thanh tịnh, tam
nghiệp thuần hòa, giới thể trang nghiêm để đem giáo Pháp của Phật ban bố cho hàng
giới tử. Và sau đây tôi cũng có ít lời để khuyên nhắc các vị giới tử Tăng Ni cầu
giới.
Tôi xin mạn phép được gọi quý vị bằng huynh đệ, bởi vì dù sao chúng ta cũng đều là con của Ðức Phật, đã là con
của Phật thì đồng một cha, tức là anh em với nhau cả. Quý huynh đệ ngày hôm
nay, cũng như tôi trước đây, hơn nửa thế kỷ, thì cũng khép nép cần cầu và khát
muốn được thọ giới. Lòng của tôi ngày hôm trước, và những ngày sau đó cũng
chính là cái lòng của quý huynh đệ thọ giới ngày hôm nay.
Tôi thông cảm ở nơi tâm nguyện đó của quý huynh đệ, vì rằng tôi đã trải qua và cũng tấm lòng của tôi từ đó được ôm
ấp cho tới ngày hôm nay. Vì sao? Vì khi mà cầu giới như vậy, thì thấy lòng mình
có phần nào gọi là thiết tha, thanh tịnh đối với giới luật. Vì rằng do sự mong
muốn do sự cần cầu đó mà nó có sự khao khát và trân trọng. Quý huynh đệ nên biết
rằng: Cái sơ tâm tức là bỏ phát tâm nó
rất là khó mà cũng rất quí, nhưng cũng có thể sau khi được rồi, thì cái tâm
phát khởi lúc ban đầu ấy lần lần nó bị phai nhạt đi.
Cho nên vừa rồi tôi nói lòng khát ngưỡng giới luật, cũng như tấm
lòng quí trọng nơi giới luật lần đầu tiên mình có được, tôi vẫn tâm tâm niệm niệm ôm ấp cho đến trọn đời.
Thật ra mà
nói cũng có lúc nó phai nhạt một phần nào, nhưng nhờ sự nghĩ đến bổn phận của
mình, nghĩ đến tương lai làm sao mình được siêu phàm nhập thánh cầu mong cho được
giải thoát, nhờ ở nơi tâm nguyện đó mà nó nếu kéo lại để cho lòng tôn kính giới
luật, quí báo giới luật như lúc ban đầu.
Do đó, tôi
khuyên nhắc tất cả quí huynh đệ mà cầu giới hôm nay nên ghi nhớ hẳn những giờ
phút thiêng liêng mà mình cầu giới. Tâm trạng chí nguyện như thế nào. Phải nhớ rõ ngày tháng năm, cái giờ cho đến
cái phút mà mình được thọ giới, để từ đó mình ôm chặt vào lòng giữ gìn, trân trọng
quí báu mãi mãi về sau trọn đời của mình.
Ðiều đó tôi
nhắc nhở ở nơi quí huynh đệ những ngày sắp tới đây, sau khi thọ giới và được đắc
giới rồi; trở về nơi trụ xứ của mình thì lần lần, quí huynh đệ mới thấy rằng sự
quí trọng ôm ấp ở nơi giới mình đã thọ, đã
được đó rất là khó giữ trọn vẹn lắm, khó giữ bền lắm, chớ không phải là
chuyện dể đâu. Phải có chí nguyện cho kiên cường, phải có một tâm hành luôn
luôn được kiểm soát thì mới có thể trọn vẹn đối với sự giữ gìn ôm ấp. Như quý huynh đệ cũng biết Phật dạy:
"Ở trong lục đạo chúng sinh thì chỉ có thân người, làm người
mới được xuất gia, mới được thọ giới làm Tăng hay Ni".
Giờ đây quý
huynh đệ được làm thân người và cũng có duyên tốt sắp tới đây được thọ giới mà
được đắc giới, được giới nhân chánh quả Ðức Như Lai, đó là do vì ở nhiều đời
trước trồng thiện căn sâu dày, cho nên ngày hôm nay mới được như vậy. Trước hết
quý huynh đệ phải trân trọng với căn lành mà mình đã dày công vun trồng từ nhiều
đời trước đó, để cho mỗi ngày được thêm lớn và khỏi phải có sự tốn hao. Như
trong luật Ðức Phật có nói:
Tại sao người thọ giới được đắc giới?
Vì rằng, người
thọ giới ở trước giới. Sự truyền giới mà lãnh giới, nhờ có tâm kính trọng hết lòng nên đắc giới, phải nhớ điều đó. Do vậy, giờ phút này, quý huynh đệ luôn luôn
giữ đến cái giới chỉ có Ðức Phật ra đời mới có, cái giới mà mình sắp thọ đó,
không phải là chuyện dễ có đâu.
Mình đã có rồi
thì cho là dễ, nếu như không có Phật ra đời thì không có cái giới đó ở thế
gian. Vì sao? Vì chính nơi giới đó mới có thể làm nền tảng, làm chỗ đứng đầu
tiên để bước lên hàng Hiền Thánh. Bởi vì các bậc Hiền Thánh do chánh định,
chánh huệ nên mới thành bậc Hiền Thánh được.
Nếu không có
giới thì chánh định không do đâu mà sanh, khi chánh định không có thì chánh huệ
từ đâu mà phát sanh, khi chánh định không có thì chánh huệ từ đâu mà phát sanh.
Cho nên nói rằng, nhân giới sanh định,
nhân định phát huệ, trong lời phát nguyện vừa rồi của quý vị tôi cũng nghe
nhắc đến điều đó.
Như vậy thì
quý vị cũng đã biết được phần nào về sự quan trọng của giới định rồi. Giới là bậc
đầu tiên, không giới thì lấy đâu để có định huệ bước lên bậc Hiền Thánh. Do có
sự suy nghĩ như vậy nếu có cái lòng hết sức quan trọng quí báu vô cùng, vì sự tôn trọng cần cầu ấy mà khi quí vị ở
trước giới Sư để thọ giới quí vị sẽ đắc giới, đó là điều ở trong giới luật
có nói.
Nguyên nhân
được đắc giới là do cái lòng hết sức kính trọng, thiếu lòng kính trọng ấy thì
không thể đắc giới được, đó là mục đích của tôi hôm nay muốn nhắc nhở quý huynh
đệ. Và tôi cũng xin nhắc tiếp theo là sau khi thọ giới rồi thì phải cố gắng học
giới cho rành, nhờ có học hiểu ghi nhớ nên mới có thể hành trì đúng với giới luật
được.
Quí vị đã có
sự học hiểu, hành trì đúng như giới luật thì quí vị đã nắm được bước đầu tiên để
bước lên bậc Hiền Thánh giải thoát hết khổ rồi, và cũng chính nơi giới luật nó
làm nấc thang đầu tiên cho quí vị sẽ đến nơi hoài bảo duy nhất của Ðức Phật ra
đời là muốn cho tất cả mọi người, tất cả chúng sinh khai thị ngộ, nhập Phật tri
kiến để thành Phật như Phật không khác.
Vậy tôi cầu
mong cho tất cả quí huynh đệ từ giờ phút này, thân tâm được thanh tịnh, nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căng tăng trưởng
để quí vị khi thọ giới thì được đắc giới. Và tôi cũng xin gởi lời cầu chúc
đến cho toàn thể chư Tôn Ðức quí vị hiện diện hôm nay cũng như toàn thể mọi người,
tất cả chúng sinh đều được an lành, đều
được an vui, đều được giải thoát.
---o0o---
HẾT
Comments
Post a Comment