31. The Jeweled Seal
Hand and Eye
The
Sutra says : “For mouth karma which is eloquent, clever and wonderful, use the
Jeweled Seal Hand.”
The Mantra : Sa pe sa pe.
The True Words : Nan. Wa dz la. Ning dan re yi. Sa wa he.
The verse :
One’s
mouth is like a flowing river of heroic eloquence,
With phrasings ingenious and subtle, and sounds clear and resonant.
In the Dharma nature’s mystery principle
and specific interfuse;
As the Buddha’s mind seal is
transmitted, the myriad good qualities unite.
31) Bảo-Ấn
Thủ Nhãn Ấn Pháp
Kinh nói rằng: “Nếu muốn được miệng nói biện
luận hay khéo, nên cầu nơi Tay cầm
chiếc
Ấn-Báu.”
Thần-chú rằng: Tát Bà Tát Bà [24]
Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ-nhựt ra,
nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Khẩu nhược huyền hà biện tài hùng
Ngôn từ khảo diệu âm lượng hồng
Lý sự viên dung pháp tánh áo
Truyền Phật-tâm-ấn vạn
thiện đồng.
[
Tài hùng biện như nước SÔNG chảy mãi không ngừng, như “DUY-MA-CẬT”
Cư-sĩ.
Diệu-âm vang dội khắp 10 phương, tầm thanh cứu khổ như là “QUÁN-THẾ-ÂM” Bồ-tát.
Lý-sự viên dung vô ngại, thì thành tựu được 2 trí: Căn-bổn-trí và
Sai-biệt-trí.
PHẬT TRUYỀN 1 ẤN NHẤT THỪA,
84 000 PHÁP QUY VỀ NHẤT TÂM.
]
KỆ-TỤNG NẦY CỦA CỐ HT.TUYÊN HÓA GỒM CÓ 4 Ý:
1.- PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN
2.- TỨ VÔ-NGẠI BIỆN TÀI, NHƯ CƯ-SĨ “DUY-MA-CẬT”.
3.- MƯỜI CHÍN LOẠI HIỆN THÂN THUYẾT PHÁP, VANG DỘI KHẮP 10 PHƯƠNG,
CỦA “DIỆU-ÂM, QUÁN-THẾ-ÂM BỒ
TÁT”.
4.- LÝ SỰ
VÔ-NGẠI PHÁP-GIỚI CỦA HOA NGHIÊM TÔNG
1.- PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN
Ðại sư Vĩnh-Gia gặp Lục-tổ
và được Tổ ấn chứng
Hồi đó, Sư nghe nói lối truyền
tâm ấn (Nhĩ đề diện mệnh, khẩu thọ tâm hội, tức là "đối diện rỉ tai, lời trao tâm lãnh") của phái Tào-khê, tức Lục-tổ ở Chùa Nam Hoa, được
truyền thừa y bát từ Phật Thích Ca, Sư bèn không quản ngàn dặm đường xa, tới
kiếm Lục-tổ để cầu ấn chứng.
Sư tới Chùa Nam Hoa thì gặp Lục-tổ đương thuyết pháp. Sư đắp y,
tay cầm tích trượng tiến lên pháp tòa, đi nhiễu bên phải ba vòng, rồi đứng trước Lục-tổ, không cúi đầu đảnh lễ
mà quát lên một tiếng lớn.
Tổ hỏi:
–Người xuất gia gọi là Sa-môn phải có phép tắc, phải đủ ba trăm
oai nghi, ba ngàn tế hạnh. Tại sao ông tới đây mà lại có thái độ thô lỗ như vậy,
một chút lễ phép cũng không có?
Sư đáp:
–Sanh
tử là việc lớn, vô thường quá mau.
Sư muốn
nói rằng việc dụng công tu tập quá cấp bách, làm gì còn thời gian để làm lễ nữa? Làm
gì còn thời gian để lo những điều tiểu tiết? Ðể nghiên cứu cái gì là ba trăm
oai nghi, ba ngàn tế hạnh? Chẳng còn chuyện gì to lớn bằng chuyện sanh tử, quỷ
vô thường đến bất chợt lúc nào không hay, vậy tôi còn thời gian nào để hành lễ
nữa?
Tổ bèn
nói:
–Sao
chẳng thể giải cái không sanh và liễu ngộ cái không mau chóng?
Ý Tổ muốn nói rằng sao không nghiên cứu pháp vô sanh? Sao không
minh bạch đạo lý của cái không mau?
Sư thưa lại:
–Thể
giải (tự tánh) tức là không sanh, liễu ngộ (tự tánh) rồi thì vốn không có mau
chóng.
Ý Sư nói rằng đừng nói tới nghiên cứu, bởi nghiên cứu không kiếm
ra sanh tử, khi minh bạch rồi thì không có cái gì gọi là mau chậm, cũng không
có cái vô thường.
Tổ bảo:
–Nếu
ông đã nói rằng thể giải tức vô sanh, ngộ rồi thì vốn không có mau, vậy ai là kẻ
phân biệt?
Ý nói rằng ai là người có ý nghĩ phân biệt đó?
–Phân
biệt cũng chẳng phải ý. Nghĩa
là không có tâm niệm tại chỗ phân biệt.
Lúc
đó, Lục-tổ bèn ấn chứng cho Ðại sư Vĩnh-Gia:
–Ðúng
thế! Ðúng thế!
Sư thấy Tổ đã ấn chứng cho mình, bèn dùng đầy đủ oai nghi lễ tạ
Tổ, sau đó Sư xin cáo từ.
Tổ thấy
Sư tới nơi chỉ nói mấy câu rồi ra đi, mới hỏi rằng:
–Sao lại ra đi quá mau như vậy?
Sư thưa:
–Vốn tự không động, há có mau ư? Sư muốn nói bổn lai không đến,
không đi, thì có gì là mau chậm.
–Ông thiệt đã chứng được ý vô sanh.
–Vô sanh có ý sao?
–Không ý, cái gì phân biệt được?
–Phân
biệt cũng không phải ý.
–Ông có thể liễu, nhưng không nên đi.
Lúc đó Sư biết rõ Lục-tổ quả đã ấn chứng cho mình, nên Sư ở lại
chùa Nam-hoa một đêm. Người đương thời gọi Sư là "Nhất-túc-giác" ngộ
một đêm. Ðó là công án về chuyện Ðại sư Vĩnh-Gia gặp Lục-tổ và được Tổ ấn chứng.
…
Kiến pháp tràng, lập tông chỉ,
Minh
minh Phật sắc Tào-Khê thị.
Ðệ nhất Ca-diếp thủ truyền đăng,
Nhị thập
bát đại Tây thiên ký.
Pháp
đông lưu, nhập thử thổ,
Bồ-đề Ðạt-ma vi Sơ tổ.
Lục đại truyền y thiên hạ văn,
Hậu
nhân đắc đạo hà cùng số.
Chân bất lập, vọng bổn không,
Hữu vô
câu khiển bất không không.
Nhị thập
không môn nguyên bất trước,
Nhất tánh Như Lai thể tự đồng.
…
(Vĩnh Gia Chứng
Ðạo Ca- Sa-Môn Huyền Giác soạn
Hòa Thượng
Tuyên Hóa Thuyết Giảng tại Kim Luân Thánh Tự Los Angeles,
California, Mỹ
Quốc, tháng 2 năm 1985)
LỜI BÀN :
Ta thấy rằng
“PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN”, không phải
đêm “TÂM" người nầy truyền cho người kia, mà là “KHAI THỊ” để cho chúng ta
“NGỘ NHẬP” TỰ-TÂM BỔN-TÁNH CỦA CHÍNH
MÌNH. Cho nên, KINH LĂNG NHGIÊM nói rằng : “CÓ ÂM-THANH hay KHÔNG CÓ
ÂM-THANH, THÌ “TÁNH NGHE” CỦA MÌNH CŨNG
KHÔNG SANH KHÔNG DIỆT” là vậy.( Phân biệt cũng
không phải ý). TỨC LÀ TÁNH
PHÂN BIỆT, KHÔNG PHẢI LÀ TÂM, Ý VÀ THỨC).
KHI THẦY VÀ TRÒ CÓ CÙNG 1 TÂM (NHẤT TÂM) NHƯ CHƯ PHẬT KHÔNG KHÁC BIỆT, THÌ GỌI LÀ PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN.
ĐÂY LÀ DÙNG “TÂM
ẤN TÂM” CHO NHỮNG NGƯỜI THƯỢNG CĂN, THƯỢNG TRÍ NHƯ VĨNH-GIA HUYỀN-GIÁC ĐẠI-SƯ
CHẲNG HẠN.
CÒN TRUYỀN LÀM TỔ, THÌ TRONG
ĐỜI CHỈ TRUYỀN CHO 1 NGƯỜI MÀ THÔI. NHƯ 28 VỊ TỔ Ở ẤN-ĐỘ VÀ 5 VỊ TỔ Ở
TRUNG HOA, VỊ SAU CÙNG LÀ TỔ HUỆ-NĂNG, THÌ KHÔNG CÒN “TRUYỀN TÂM-ẤN” VÀ Y-BÁT LÀM TỔ NỮA.
Còn “PHẬT TRUYỀN TÂM-ẤN CHUNG” cho tất cả
chúng-sanh trong PHÁP-GIỚI, thì lấy “THẬT
TƯỚNG” trong KINH VĂN ĐẠI THỪA (THÁNH NGÔN LƯỢNG) làm TÂM-ẤN.
Như “THIỀN
TÔNG” BỒ-ĐỀ ĐẠT-MA khuyên tứ chúng, lấy “KINH LĂNG GÌA” làm TÂM-ẤN, LỤC-TỔ HUỆ-NĂNG khuyên tứ chúng, lấy “KINH KIM CANG”
làm TÂM-ẤN…
“TỊNH ĐỘ TÔNG” lấy KINH A-DI-ĐÀ, KINH VÔ-LƯỢNG-THỌ…
làm TÂM-ẤN.
“MẬT TÔNG” lấy KINH ĐẠI-NHẬT, KINH
LĂNG-NGHÊM… làm TÂM-ẤN.
“HOA NGHIÊM, PHÁP HOA TÔNG” lấy KINH HOA-NGHIÊM, KINH
PHÁP-HOA làm TÂM-ẤN…
Tóm lại, DẦU TU PHÁP MÔN NÀO, DẦU LÀM VIỆC THIỆN
NHỎ NHƯ VI-TRẦN, CŨNG HƯỚNG VỀ NHỨT TÂM, TỨC LÀ “NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ”. ĐÂY LÀ PHẬT TRUYỀN “1 ẤN NHỨT THỪA” CHO TẤT CẢ
CHÚNG SANH TRONG PHÁP GIỚI.
Tuy nhiên, “LÝ”
TUY đốn ngộ, “SỰ” PHẢI tiệm tu”.
Nghĩa là chúng ta, phải Y theo “NHỨT THỪA” mà tu hành thì mới thành “NHỨT THIẾT
CHỦNG TRÍ”.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng:“Nấu
cát muốn thành cơm, dầu nấu đến nhiều kiếp cũng chẳng thể thành. Dùng thức tâm phan duyên phân biệt vô thường
để tu hành mà muốn được “pháp thân Như
Lai thường trụ” cũng đồng với ví dụ trên”.
Nguyện dĩ thử công-đức,
Phổ
cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng-sanh,
Giai cộng thành Phật-đạo.
( KINH NHẬT-TỤNG)
2.- TỨ VÔ-NGẠI
BIỆN TÀI, NHƯ CƯ-SĨ “DUY-MA-CẬT”.
Biện-tài có bốn loại, gọi là
"tứ vô ngại biện."
1)
Thứ nhất là vô ngại biện về lời, tức ngôn từ. Bất cứ ai
có vấn đề gì, ngài đều biện giải được một cách trôi chảy. Lời lẽ mà ngài xử dụng
nghe rất hay, vừa tinh luyện lại vừa chính xác, dùng rất đúng chỗ. Ðối phương
lý luận cách nào, cũng không sao thắng nổi.
2)
Vô ngại biện thứ hai là về nghĩa. Không riêng ngôn từ mỹ lệ,
nghĩa lý cũng vô cùng mạch lạc.
3)
Thứ ba là vô ngại biện về pháp. Lời ngài nói ra, chỗ nào cũng là đạo, lời nào cũng quy về gốc;
tất cả đều là Phật-pháp, không có gì bế tắc trở ngại.
4)
Thứ tư là vô ngại biện về vui thích thuyết pháp. Là một loại tam muội nhạo thuyết, vui thích thuyết pháp
cho mọi người, trừ phi người ta không muốn nghe, nếu muốn nghe, thì lời pháp sẽ
như nước nguồn tuôn chảy, không lúc nào ngừng.
(Lược Giảng
Kinh Kim Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật- Hòa Thượng Tuyên Hóa)
KINH-VĂN:
Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát rằng:
- "Các Nhân giả! Thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không
hai"? Cứ theo chỗ thích của mình mà nói.
Trong Pháp hội có Bồ Tát tên là Pháp Tự Tại nói:
- Các Nhân giả! "Sanh", "diệt" là hai. Pháp vốn không sanh, cũng không diệt, đặng
vô sanh pháp nhẫn, đó là vào "pháp môn không hai".
…
Các Bồ Tát nói như thế rồi, hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:
- Thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không hai?
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói:
- Như ý tôi đối với tất cả pháp không nói không rằng, không chỉ, không biết, xa lìa các vấn đáp, đó
là vào pháp môn không hai.
Khi đó Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng:
- Chúng tôi ai ai cũng nói rồi, đến lượt Nhân giả nói thế nào là
Bồ Tát vào pháp môn không hai?
Ông
Duy Ma Cật im lặng không nói.
Ngài Văn Thù Sư Lợi khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Cho đến
không có văn tự ngữ ngôn, đó mới thật là vào pháp môn không hai.
Khi nói phẩm vào Pháp Môn
Không Hai này, trong chúng có năm nghìn Bồ Tát đều vào pháp môn không hai, chứng Vô sanh Pháp nhẫn.
Mặc (im lặng không nói) thời thuyết, thuyết thời mặc,
Ðại
thí môn khai vô ủng tắc.
Hữu
nhân vấn ngã giải hà tông?
Báo đạo
ma-ha bát-nhã lực. ( TỨ VÔ-NGẠI BIỆN TÀI)
Hoặc
thị hoặc phi nhân bất thức,
Nghịch
hành thuận hành thiên mạc trắc.
(Vĩnh Gia Chứng Ðạo Ca)
3.- 19 LOẠI HIỆN THÂN THUYẾT
PHÁP, VANG DỘI KHẮP 10 PHƯƠNG,
CỦA “DIỆU-ÂM, QUÁN-THẾ-ÂM BỒ
TÁT”.
DIỆU-ÂM, QUÁN-THẾ ÂM BỒ-TÁT, QUÁN-SÁT THEO
ÂM-THANH MÀ HIỆN 19 LOẠI THÂN THUYẾT PHÁP, ĐỂ CỨU KHỔ CỨU NẠN, CHO CHÚNG-SANH
TRONG 10 PHƯƠNG PHÁP GIỚI, NẾU CHÚNG SANH NÀO, THƯỜNG CUNG KÍNH TRÌ NIỆM DANH
HIỆU “NAM MÔ ĐẠI-BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT” .
THÌ SẼ THOÁT 7 NẠN, TRỪ ĐƯỢC 3 ĐỘC VÀ TOẠI NGUYỆN 2 ĐIỀU MONG CẦU.
THOÁT 7 NẠN
LÀ:
1)
LỬA CHÁY
2)
NƯỚC TRÔI
3)
GÍO BÃO
4)
DAO GẬY
5)
DẠ-XOA
cùng LA-SÁT
6)
GÔNG CÙM
XIỀNG XÍCH TRÓI BUỘC NƠI THÂN
7)
OÁN TẶC
GIẢI TRỪ 3
ĐỘC LÀ:
1)
LÌA LÒNG THAM DÂM, Ý DỤC
2)
LÌA LÒNG GIẬN HỜN
3)
LÌA LÒNG NGU-SI
TOẠI 2 ĐIỀU
MONG CẦU LÀ:
1)
CẦU CON
TRAI “PHƯỚC-ĐỨC TRÍ-HUỆ”
2)
CẦU CON
GÁI CÓ TƯỚNG “XINH ĐẸP ĐOAN CHÁNH”
KINH VĂN:
Ngài Vô Tận Ý
Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn, Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong cõi Ta Bà
như thế nào?"
Phật bảo Vô
Tận Ý Bồ Tát: "Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh trong quốc độ nào đáng dùng
thân Phật [1] được độ thoát thời
Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Duyên Giác [2] được độ thoát, liền
hiện thân Duyên Giác mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Thanh Văn [3] được độ thoát, liền
hiện thân Thanh Văn mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Phạm Vương [4] được độ thoát, liền
hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Ðế Thích [5] được độ thoát, liền
hiện thân Ðế Thích mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Tự Tại Thiên [6] được độ thoát, liền
hiện thân Tự Tại-Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Ðại Tự Tại Thiên [8] được độ thoát, liền
hiện thân Ðại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Thiên Ðại Tướng Quân [8] được độ thoát, liền
hiện thân Thiên Ðại Tướng Quân mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Tỳ Sa Môn [9] được độ thoát, liền
hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Tiểu Vương [10] được độ thoát, liền
hiện thân Tiểu Vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Trưởng Giả [11] được độ thoát, liền
hiện thân Trưởng Giả mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Cư Sĩ [12] được độ thoát, liền
hiện thân Cư Sĩ mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Tể Quan [13] được độ thoát, liền
hiện thân Tể Quan mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Bà La Môn [14] được độ thoát, liền
hiện thân Bà La Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà
Tắc, Ưu Bà Di [15] (4 chúng
Phật-tử)
được độ
thoát, liền hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà vì đó nói
pháp.
Người đáng
dùng thân phụ nữ [16] của Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn được độ thoát, liền
hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng
dùng thân đồng nam, đồng nữ [17] (người Nam còn thuần dương, Nữ còn thuần âm, chưa
có vợ hoặc chồng, chưa có sự quan hệ Nam và Nữ) được độ thoát, liền
hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.
Người
đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn
Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhân cùng phi nhân [18] (THIÊN, LONG CÙNG BÁT-BỘ) được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó
nói pháp.
Người đáng
dùng thân Chấp Kim Cang Thần [19] được độ thoát, liền hiện thân Chấp Kim Cang Thần mà vì đó nói
pháp.
Vô Tận Ý! Quán
Thế Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh,
cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.
Quán Thế Âm Ðại Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta
Bà này đều gọi Ngài là vị "Thí Vô
Úy".
( Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa -Phẩm 'Quán
Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn' Thứ Hai Mươi Lăm)
4.- LÝ SỰ
VÔ-NGẠI PHÁP-GIỚI CỦA HOA NGHIÊM TÔNG
Lại
nữa, muốn
hiểu thấu phần nào cảnh-giới Giáo, Lý, Hạnh, Quả đều dung thông vô-ngại, người học đạo cần phải biết rõ bốn
pháp-giới, bốn cấp bực mà chư đại-thừa Bồ-Tát tuần tự tu chứng :
1. Lý
vô-ngại pháp-giới
2. Sự
vô-ngại pháp-giới
3. Lý sự vô-ngại pháp-giới
4. Sự-sự
vô-ngại pháp-giới
'Lý' tức là
chơn-lý thật-tánh, là thể tánh chơn thật của tất cả pháp, nên cũng gọi là
pháp-tánh hay pháp-giới-tánh, chơn-như-tánh. Tất cả pháp trong vũ trụ đều đồng
một thể tánh chơn thật ấy. Thể-tánh ấy
dung thông vô-ngại, nên gọi là 'Lý vô-ngại pháp-giới'.
Người chứng
được lý vô-ngại này chính là bực thành-tựu căn-bổn-trí,
mà bắt đầu dự vào hàng pháp-thân Bồ-Tát.
Tất cả pháp
'Sự' đều đồng một thể-tánh chơn-thật, tức là đồng lấy pháp-tánh làm tự thể.
Toàn-thể 'Sự' là pháp-tánh, mà pháp-tánh đã viên-dung vô-ngại, thời toàn sự
cũng vô-ngại, nên gọi là 'Sự vô-ngại
pháp-giới'.
Người chứng
được pháp-giới này chính là bực pháp-thân Bồ-Tát thành-tựu sai-biệt-trí (cũng gọi là
quyền-trí, tục-trí, hậu-đắc-trí).
Lý
là thể-tánh của 'Sự' (tất cả pháp), 'Sự' là hiện-tượng của 'Lý-tánh'. Vậy thời
lý-tánh tức là lý-tánh của sự, còn sự lại là sự-tướng của lý-tánh. Chính
Lý-tánh là toàn-sự, mà tất cả sự là toàn Lý-tánh, nên gọi là 'Lý-sự vô-ngại pháp-giới'.
Người chứng
được lý-sự pháp-giới này thời là bậc pháp-thân Bồ-Tát đồng thời hiển phát cả hai trí (căn-bổn-trí và sai-biệt-trí).
Tất cả sự đã
toàn đồng một thể-tánh mà thể-tánh thời dung thông không phân chia riêng khác,
nên bất luận là một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và cũng đều tức là
tất cả sự, một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự nhiếp và tức một sự. Thế là
sự-sự vô-ngại tự-tại, nên gọi là 'Sự-sự
vô-ngại pháp-giới'.
Người chứng
được Sự-sự pháp-giới này là bực pháp-thân Bồ-Tát thành-tựu nhứt-thiết chủng-trí. Viên-mãn trí này chính là Ðấng
Vô-Thượng-Giác (Phật Thế-Tôn ).
Tóm lại,
nếu “Qúy-vị” thường trì tụng “BẢO-ẤN THỦ NHÃN ẤN PHÁP” này thành tựu, thì được PHẬT
TRUYỀN TÂM-ẤN, được TỨ VÔ-NGẠI BIỆN TÀI, được 19 LOẠI HIỆN THÂN THUYẾT PHÁP, chứng nhập cảnh giới LÝ SỰ VÔ-NGẠI
PHÁP GIỚI của HOA NGHIÊM TÔNG. Cho nên, DẦU TU PHÁP MÔN NÀO, DẦU LÀM VIỆC THIỆN
NHỎ NHƯ VI-TRẦN, CŨNG QUY VỀ NHỨT TÂM,
TỨC LÀ NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ. ĐÂY LÀ “SỰ-SỰ VÔ-NGẠI PHÁP-GIỚI.
Kệ tụng:
Khẩu nhược huyền hà biện tài hùng
Ngôn từ khảo diệu âm lượng hồng
Lý sự viên dung pháp tánh áo
Truyền Phật-tâm-ấn vạn thiện đồng.
Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn
Pháp
Thứ Ba Mươi Mốt
Tát Bà Tát Bà [24]
Án-- phạ-nhựt ra, nảnh
đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.
---o0o---
24) Tát Bà Tát Bà
Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì
tụng câu chú Tát Bà Tát Bà, thì “BỔN-THÂN
NGÀI HƯƠNG-TÍCH BỒ-TÁT” sẽ “XUẤT HIỆN”, áp
lãnh QUỶ-BINH ở năm phương để làm kẻ tùy tùng, hành tung của vị HƯƠNG-TÍCH BỒ-TÁT không thể nghĩ bàn.
Đây là đấng đã thành tựu “BẢO-ẤN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, có khả năng giúp
cho Qúi vị trong mọi NGHỊCH CẢNH CHƯỚNG DUYÊN đều được “AN-VUI”.
BỔN-THÂN NGÀI HƯƠNG-TÍCH BỒ-TÁT
( Thường TRÌ “BẢO-ẤN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, để giúp cho Qúi vị trong mọi NGHỊCH CẢNH CHƯỚNG DUYÊN đều được AN-VUI.
Và ngược lại nếu “QÚI VỊ” Thường TRÌ “BẢO-ẤN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúi
vị là “HÓA THÂN” của Bồ-tát HƯƠNG-TÍCH, nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)
Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “BẢO-ẤN
THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Bồ-tát HƯƠNG-TÍCH sẽ “XUẤT HIỆN” áp lãnh QUỶ-BINH ở
5 phương có HÌNH TƯỚNG khác nhau như là :
“XANH, VÀNG, ĐỎ, TRẮNG và ĐEN” để
làm kẻ TÙY TÙNG, giúp cho Qúy vị trong tất
cả NGHỊCH CẢNH CHƯỚNG DUYÊN đều được AN-VUI.
Vị Bồ-tát nầy, dùng VÔ LƯỢNG HÌNH TƯỚNG KHÁC
NHAU ĐỂ “KHAI THỊ” CHO QÚY VỊ, HÀNH TUNG KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN, QÚY VỊ KHÔNG BIẾT NGÀI SẼ HIỆN THÂN GÌ.
CÓ KHI NGÀI LÀ NGƯỜI BÊN CẠNH CỦA QÚY VỊ, MÀ QÚY VỊ KHÔNG NHẬN RA NGÀI.
CHO NÊN NÓI “UY THẦN” CỦA NGÀI RẤT LÀ CAO THÂM, CÓ KHẢ NĂNG CỨU ĐỘ TẤT CẢ “QUẦN-SANH”
Kệ tụng
:
HƯƠNG-TÍCH
BỒ-TÁT đại uy thần
Thanh
hoàng xích bạch hắc quỷ binh
Phục
lao chấp dịch thính giáo hóa
Cảm ứng
đạo giao cứu quần sanh
KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”
HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN
KỆ TỤNG
HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng
24. Tát bà tát bà
Tát
bà tát bà. Hán dịch là “nhất thiết lợi lạc”. Câu chú này bao hàm cả Bảo thủ
nhãn ấn pháp, nghĩa là mang đến mọi thứ lợi lạc cho mọi người.
Bằng
cách hành trì ấn pháp này, quí vị có khả năng đem sự an vui lợi lạc đến cho hết
thảy mọi loài chúng sinh. Thiên vương, Diêm vương, Quỷ vương đều chấp hành theo
người trì tụng ấn chú này. Quí vị bảo họ: “Hãy thả tội nhân này ra” thì Diêm
vương liền tức khắc thả ra liền. Vì sao vậy? Vì quí vị đã có được Bảo ấn này.
Bảo
ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp
thiên hạ, ai có trách nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không
ai dám chống lại. Với Bảo ấn, quí vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài
chúng sinh. Quí vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành
trì. Và sẽ đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là “Nhất thiết lợi lạc”.
Người
Trung Hoa đều biết có một vị Tiên, biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên
ấn”. Người con của Quảng Thành vương cũng có một phiên thiên ấn. Chính là ấn
này vậy. Đạo Lão gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ – tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”.
Nếu
quí vị dụng công hành trì thì nhất định sẽ thành tựu Bảo ấn này. Khi thành tựu
rồi, nếu có người vừa mới chết hoặc sắp chết, quí vị chỉ cần trì ấn này vào một
tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay.
Hãy tha cho anh ta trở về dương gian”. Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng
của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng để sử dụng được Bảo ấn
này, trước hết quí vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công phu chưa
thành tựu thì chẳng có kết quả gì.
Thế
nào nghĩa là thành tựu công phu tu hành? Cũng giống như đi học. Trước hết, quí
vị phải vào tiểu học, rồi lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có
thể được học vị Tiến sĩ.
Tu
tập để thành tựu Bảo ấn này cũng như đạt được học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng tạm ví
dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn này không có gì so sánh được.
Tát
bà tát bà nghĩa là “lợi lạc cho tất cả mọi loài chúng sinh”. Quí vị thấy sự
diệu dụng vô biên đến như thế. Nên gọi ấn này là Bảo ấn. Nếu quí vị muốn sử
dụng được Bảo ấn này thì phải công phu tu trì qua cả bốn mươi hai thủ nhãn. Tát
bà tát bà chỉ là một trong bốn mươi hai ấn pháp ấy mà thôi.
Có
người nghe tôi giảng như vậy sẽ khỏi nghĩ rằng: “Ta sẽ tu tập Bảo ấn này ngay
để bất kỳ lúc nào có người sắp chết, ta sẽ sử dụng ấn này, ra lệnh cho Diêm
vương không được bắt người ấy chết”. Quí vị cứ thực hành, quí vị có thể giúp
người kia khỏi chết, như ng đến khi quí vị phải chết, thì chẳng có người nào
giúp quí vị thoát khỏi chết bằng Bảo ấn này cả.
Tôi
đã có dịp sử dụng ấn này hai lần. Một lần ở Mãn Châu và một lần ở Hương Cảng.
Lần ở Mãn Châu là trường hợp cứu một người sắp chết. Người này chắc chắn sẽ
chết nếu tôi không sử dụng Bảo ấn này. Vào một chiều trời mưa ngày 18 tháng 4
âm lịch. Một người tên là Cao Đức Phúc đến chùa Tam Duyên, nơi tôi đang ngụ.
Anh ta quỳ trước tượng Phật, cầm một cây dao bọc trong giấy báo, chuẩn bị sẵn
sàng chặt tay để cúng dường chư Phật.
Quí vị nghĩ sao? Anh ta khôn ngoan hay
không? Dĩ nhiên là quá ngu dại. Tuy nhiên sự ngu dại của anh ta lại xuất phát
từ lòng hiếu đạo. Quí vị biết không. Mẹ anh ta bị bệnh trầm trọng gần chết. Do
vì thường ngày mẹ anh ta nghiện thuốc phiện nặng. Nhưng bệnh bà quá nặng đến
mức hút thuốc phiện cũng không được nữa.
Bà ta nằm co quắp, chẳng ăn uống gì.
Đầu lưỡi đã trở sang màu đen, môi miệng nứt nẻ. Bác sĩ Đông, Tây y đều bó tay,
không hy vọng gì còn chữa trị được. Nhưng người con trai của bà nguyện: “Lạy Bồ
– tát rất linh cảm, con nguyện đến chùa Tam Duyên chặt tay cúng dường chư Phật.
Với lòng chí thành, con nguyện cho mẹ con được lành bệnh”.
Ngay
khi chàng trai sắp chặt tay, có người nắm tay anh ta lôi lại đằng sau rồi nói:
“Anh làm gì thế, anh không được vào đây mà tự sát”.
Anh ta trả lời:
-
“Tôi chỉ chặt tay cúng dường chư Phật, cầu nguyện cho mẹ tôi được lành bệnh.
Ông đừng cản tôi”.
Chàng
trai chống lại, nhưng người kia không để cho anh ta chặt tay nên liền cho người
báo cho Hoà thượng trụ trì biết. Hoà thượng cũng không biết phải làm sao, Ngài
liền phái cư sĩ Lý Cảnh Hoa, người hộ pháp đắc lực của chùa đi tìm tôi.
Dù
lúc ấy, tôi vẫn còn là chú Sa – di. Tôi được giao nhiệm vụ như là tri sự ở chùa
Tam Duyên, chỉ dưới Hoà thượng trụ trì. Tôi chỉ là một chú tiểu, nhưng không
giống như những chú tiểu cùng ăn chung nồi, cùng ngủ chung chiếu. Tôi thức dậy
trước mọi người và ngủ sau tất cả mọi người. Tôi làm những việc mà không ai
muốn làm và chỉ ăn một ngày một bữa trưa, không ăn phi thời. Tu tập chính là
sửa đổi những sai lầm vi tế. Nếu khi chưa chuyển hoá được những lỗi lầm nhỏ
nhặt ấy, có nghĩa là mình còn thiếu năng lực trong công phu.
Hoà
thượng trụ trì giao việc đó cho tôi. Tôi liền đến bạch Hoà thượng:
-
“Phật tử đến cầu Hoà thượng cứu giúp. Nay Hoà thượng lại giao cho con. Hoà
thượng làm cho con thật khó xử”.
Hoà thượng trụ trì
bảo:
- “Con hãy đem lòng
từ bi mà cứu giúp họ”.
Hoà
thượng dạy những lời rất chí lý. Tôi vốn chẳng ngại khó nhọc, nên khi nghe
những lời đó, tôi rất phấn khích, tôi thưa:
- Bạch Hoà thượng,
con sẽ đi.
Tôi bảo chàng trai:
- Anh hãy về nhà
trước, tôi sẽ theo sau.
Anh ta nói:
- Nhưng thầy chưa
biết nhà con?
Tôi đáp:
- Đừng bận tâm về
tôi. Hãy cứ về nhà trước.
Lúc
ấy là vào khoảng năm giờ chiều, mặt trời vừa xế bóng. Anh ta đi theo đường lộ
chính, còn tôi đi theo đường mòn. Nhà anh ta cách chùa chừng sáu dặm. Anh ta
quá đỗi sửng sốt khi về đến nơi, anh ta đã thấy tôi ngồi đợi anh trong nhà.
- Bạch thầy, sao mà
thầy biết nhà con mà đến sớm thế?
Tôi nói:
-
Có lẽ anh vừa đi vừa chơi, hoặc anh ham xem bóng đá hay truyền hình gì đó.
Cậu ta đáp:
- Thưa không, con cố
hết sức đi thật nhanh để về nhà.
Tôi nói:
-
Có lẽ xe đạp của anh đi không được nhanh như xe tôi, nên tôi đến trước.
Ngay
khi vào thăm bà mẹ, tôi thấy không thể nào cứu sống bà ta được. Nhưng tôi vẫn
quyết định cố gắng hết sức để cứu bà. Tôi dùng Bảo ấn viết mấy dòng:
“Chàng
trai này có tâm nguyện rất trí thành, nguyện chặt tay cúng dường chư Phật để
cứu mẹ sống. Tôi đã ngăn cản anh ta chặt tay. Bằng mọi cách, xin cho mẹ anh ta
được sống”.
Tôi
gửi Bảo ấn đi, sáng hôm sau bà ta vốn đã nằm bất động suốt bảy, tám ngày nay,
chợt ngồi dậy gọi con trai bằng tên tục.
- Phúc ơi... Phúc
ờ... mẹ đói quá, cho mẹ tí cháo...
Chàng
trai suốt bảy, tám ngày nay không nghe mẹ gọi. Nay cực kỳ vui sướng. Anh ta
chạy đến bên giường nói với mẹ:
-
Mẹ ơi, mẹ đã nằm liệt giường suốt tám ngày nay. Nay mẹ khoẻ rồi chứ?
Bà ta trả lời:
-
Chẳng biết bao lâu nữa. Mẹ bị rượt chạy trong một cái hang tối đen thăm thẳm
không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng ánh sao hay đèn đuốc gì cả. Mẹ chạy và cứ
chạy hết ngày này qua ngày khác để tìm đường về nhà mình. Mẹ có kêu, nhưng
chẳng ai nghe. Cho đến đêm hôm qua, mẹ mới gặp một vị sư khổ hạnh mang y cà sa
đã mòn cũ, vị này đã dẫn mẹ về nhà... Con cho mẹ ăn tí cháo loãng để cho đỡ
đói.
Người con nghe mẹ nói
đến vị sư, liền hỏi:
- Nhà sư mẹ gặp dung
mạo như thế nào?
Bà đáp:
- Ngài rất cao. Nếu
mẹ được gặp lại, mẹ sẽ nhận ra ngay.
Lúc
đó tôi đang nghỉ trên giường. Anh ta liền đến bên tôi, chỉ cho mẹ và hỏi:
- Có phải vị sư này
không?
Bà nhìn tôi chăm chú
rồi kêu lên:
- Đúng rồi, chính
thầy là người đã đưa mẹ về nhà.
Lúc
đó, toàn gia quyến chừng mười người, gồm cả già trẻ, đều quỳ xuống trước mặt
tôi thưa:
-
Bạch Thầy, Thầy đã cứu mẹ con sống lại. Nay toàn gia đình chúng con cầu xin
được quy y thọ giới với Thầy. Bất luận nhà chùa có việc gì, con nguyện đem hết
sức mình xin làm công quả, và tuân theo lời chỉ dạy của Thầy để tu hành.
Về
sau, dân cả làng này đều đến chùa xin quy y và cầu xin tôi chữa bệnh cho họ.
Tôi bảo:
-
Tôi chỉ có phép chữa bệnh bằng cách đánh đòn. Quí vị có chịu thì tôi chữa.
Họ
đồng ý và tôi phải chữa. Có nghĩa là bắt người bệnh nằm xuống, đánh một người
ba hèo bằng cái chổi tre. Đánh xong, tôi hỏi:
- Đã hết bệnh chưa?
Thật là ngạc nhiên. Họ lành bệnh thật!
Đó
là một chuyện phiền phức xảy ra ở Mãn Châu. Lần thứ 2 tôi dùng Bảo ấn này là ở
Hương Cảng. Khi bố của cô Madalena Lew 79 tuổi bị bệnh. Các vị bói toán đều bảo
rằng ông ta chắc chắn sẽ qua đời trong năm nay. Ông ta đến gặp tôi xin quy y
Tam Bảo để cầu nguyện gia hộ cho ông được sống thêm ít năm nữa.
Ông thưa:
-
Bạch Thầy. Xin Thầy giúp cho con được sống thêm một thời gian nữa.
Tôi bảo:
-
Thế là ông chưa muốn chết. Tôi sẽ giúp cho ông sống thêm 12 năm nữa? Được chưa?
Ông rất mừng vội đáp:
- Thưa vâng, được như
thế thật là đại phúc.
Rồi
tôi chú nguyện cho ông ta và ông ta được sống thêm 12 năm nữa.
Tuy
nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là
cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối
đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
-
Được rồi. Thầy đã giúp cho người ta khỏi chết, nay Thầy phải thế mạng.
Đến
khi quí vị gặp cơn vô thường; chẳng có ai dùng Bảo ấn này để giúp được cả. Nếu
quí vị nghĩ rằng mình có thể sử dụng Bảo ấn để cứu mình khỏi chết là quí vị
lầm. Diệu dụng của ấn pháp cũng giống như lưỡi dao, tự nó không thể cắt đứt
được chuôi dao của chính nó. Nên khi quí vị gặp bước đường cùng, thì cũng giống
như chuyện vị Bồ – tát bằng đất nung:
Bồ
Tát bằng đất nung đi qua biển.
Khó lòng giữ thân được vẹn toàn.
Vậy
nên nếu quí vị dù đã thông thạo trong khi sử dụng ấn pháp này, cũng phải công
phu hành trì thêm. Vì lý do này mà tôi ít để ý đến việc riêng của người khác
nữa.
ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)
Comments
Post a Comment