SÁU YẾU ĐIỂM PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM
( của HT. THÍCH THIỀN-TÂM)
1) Giác
Ngộ Tâm
2) Bình
Đẳng Tâm
3) Từ
Bi Tâm
4) Hoan
Hỷ Tâm
5) Sám
Nguyện Tâm
6) Bất
Thối Tâm
Điểm
thứ nhứt là Giác Ngộ Tâm
Chúng sanh thường chấp sắc
thân này là ta, tâm thức có hiểu biết, có buồn giận thương vui là ta. Nhưng thật
ra, sắc thân này giả dối, ngày kia khi chết đi nó sẽ tan về với đất bụi, nên
thân tứ đại không phải là ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái
biết của sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, như một người trước kia
dốt, nay theo học chữ Việt, tiếng Anh, khi học thành, có cái biết về chữ Việt,
tiếng Anh.
Lại như một kẻ chưa biết Ba
Lê, sau một dịp sang Pháp du ngoạn, thu thập hình ảnh của thành phố ấy vào tâm.
Khi trở về bản xứ có ai nói đến Ba Lê, nơi tâm thức liền hiện rõ quang cảnh của
đô thị ấy. Cái biết đó trước kia không, khi lịch cảnh thu nhận vào nên tạm có,
sau bỏ lãng không nghĩ đến, lần lần nó sẽ phai lạt đến tan mất hẳn, trở về
không. Cái biết của ta khi có khi không, hình ảnh này tiêu, hình ảnh khác hiện,
tùy theo trần cảnh thay đổi luôn luôn, hư giả không thật, nên chẳng phải là ta.
Cổ đức đã bảo: "Thân như bọt tụ, tâm
như gió. Huyễn hiện vô căn, không tánh thật." Nếu giác ngộ thân tâm như
huyễn, không chấp trước, lần lần sẽ đi vào cảnh giới "nhơn không" chẳng
còn ngã tướng. Cái ta của ta đã không, thì cái ta của người khác cũng không,
nên không có nhơn tướng. Cái ta của mình và người đã không, tất cái ta của vô
lượng chúng sanh cũng không, nên không có chúng sanh tướng. Cái ta đã không,
nên không có bản ngã bền lâu, không thật có ai chứng đắc, cho đến cảnh chứng
thường trụ vĩnh cữu của Niết Bàn cũng không, nên không có thọ giả tướng. Đây cần nên nhận rõ, chẳng phải không có thật
thể chân ngã của tánh Chân Như thường trụ, nhưng vì thánh giả không chấp trước,
nên thể ấy thành không.
Nhơn đã không, thì Pháp cũng
không, vì sự cảnh luôn luôn đổi thay sanh diệt, không có tự thể. Đây lại cần
nên nhận rõ chẳng phải các pháp khi hoại diệt mới thành không, mà vì nó hư huyễn,
nên đương thể chính là không, cả Nhơn cũng thế. Cho nên cổ đức đã bảo: "Cần
chi đợi hoa rụng. Mới biết sắc là không" (Hà tu đãi hoa lạc. Nhiên hậu thỉ tri không).
Hành giả khi đã giác ngộ Nhơn
và Pháp đều không, thì giữ lòng thanh tịnh trong sáng không chấp trước mà niệm
Phật. Dùng lòng giác ngộ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
Điểm
thứ hai là Bình Đẳng Tâm
Trong Khế Kinh, đức Phật
khuyên dạy: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, là cha mẹ đời quá khứ và
chư Phật đời vị lai." Chư Phật thấy chúng sanh là Phật, nên dùng tâm bình
đẳng đại bi mà tế độ. Chúng sanh thấy chư Phật là chúng sanh, nên khởi lòng phiền
não phân biệt ghét khinh. Cũng đồng một
cái nhìn, nhưng lại khác nhau bởi mê và ngộ. Là đệ tử Phật, ta nên tuân lời
đức Thế Tôn chỉ dạy, đối với chúng sanh phải có tâm bình đẳng và tôn trọng, bởi
vì đó là chư Phật vị lai, đồng một Phật tánh. Khi dùng lòng bình đẳng tôn kính
tu niệm, sẽ dứt được nghiệp chướng phân biệt khinh mạn, nảy sanh các đức lành.
Dùng lòng bình đẳng như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
Điểm thứ ba là Từ Bi Tâm
Ta cùng chúng sanh đều sẵn đủ
đức hạnh, tướng hảo trí huệ của Như Lai, mà vì mê chân tánh, khởi hoặc nghiệp
nên phải bị luân hồi, chịu vô biên sự thống khổ. Nay đã rõ như thế, ta phải dứt
tâm ghét, thương, phân biệt, khởi lòng cảm hối từ bi tìm phương tiện độ mình cứu
người, để cùng nhau được an vui thoát khổ. Nên nhận rõ từ bi khác với ái kiến. Ái kiến là lòng thương yêu mà chấp luyến
trên hình thức, nên kết quả bị sợi giây tình ái buộc ràng. Từ bi là lòng xót thương cứu độ, mà lìa tướng,
không phân biệt chấp trước; tâm này thể hiện dưới đủ mọi mặt, nên kết quả được an
vui giải thoát, phước huệ càng tăng.
Muốn cho tâm
từ bi được thêm rộng, ta nên từ nỗi khổ của mình, cảm thông đến các nỗi khổ khó
nhẫn thọ hơn của kẻ khác, tự nhiên sanh lòng xót thương muốn cứu độ, niệm từ bi
của Bồ Đề tâm từ đó phát sanh. Đại khái như trong hoàn cảnh chiến tranh hiện
nay, trẻ thơ phải nhờ cha mẹ nuôi dạy, mà cha mẹ lại bị tử nạn thành ra côi
cút, bơ vơ. Lại như người già phải nhờ con cái phụng dưỡng, mà con cái đều bị yểu
vong, nên phải buồn đau cô khổ. Thấy những cảnh ấy, động lòng xót thương, muốn
cứu độ, niệm từ bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh.
Những thanh niên thông minh khỏe
mạnh, tương lai đầy hy vọng bỗng bị bom đạn làm cho tàn phế. Nhiều thiếu nữ
đang hồi xuân sắc, người thân yêu nhờ cậy bỗng bị tử thần cướp mất, khiến nỗi lạc
bước sa đọa, hoặc thành cảnh mẹ góa con côi, sanh kế sống còn của ngày mai mờ mịt.
Thấy những cảnh ấy, động lòng xót thương muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ Đề tâm
chưa phát bỗng tự phát sanh.
Có nhiều người đau yếu, mà vì
vật giá cao quý, không tiền thuốc thang, thành ra kéo dài thân bịnh khổ qua năm
tháng, đôi lúc lắm kẻ phải quyên sinh. Có những người nghèo nàn thất nghiệp,
nay vợ đau, mai con bịnh, rách rưới lang thang, nợ nần đòi hỏi, hằng chịu đói lạnh
qua ngày tháng, sống cũng lỡ mà chết chẳng xong. Lại có những kẻ mang nhiều tâm
sự buồn khổ không bạn lành khuyên lơn giải thích; những kẻ mê tối tạo nghiệp
không biết ngày mai mình sẽ khổ, không gặp Phật pháp để tìm đường lối thoát ly.
Thấy những cảnh ấy, động lòng thương xót muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ Đề tâm
chưa phát bỗng tự phát sanh.
Nói rộng ra, như trong kinh
Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền đã khai thị: "Bồ Tát quán sát chúng sanh không
nơi nương tựa mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi
đại bi, quán sát chúng sanh nghèo khổ không căn lành mà khởi đại bi. Quán sát
chúng sanh ngủ say trong đêm dài vô minh mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh
làm những điều ác mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh đã bị ràng buộc, lại
thích lao mình vào chỗ ràng buộc mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh bị chìm đắm
trong biển sanh tử mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh vương mang tật khổ lâu
dài mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh không ưa thích pháp lành mà khởi đại
bi. Quán sát chúng sanh xa mất Phật pháp mà khởi đại bi..."
Đã phát đại bi tâm tất phải
phát đại Bồ Đề tâm thề nguyền cứu độ. Thế thì lòng đại từ bi và lòng đại Bồ Đề
dung thông nhau. Cho nên phát từ bi tâm tức là phát Bồ Đề tâm. Dùng lòng đại từ
bi như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
Điểm thứ tư là Hoan Hỷ
Tâm
Đã có xót thương tất phải thể
hiện lòng ấy qua tâm hoan hỷ. Hoan hỷ đây có hai thứ: tùy hỷ và hỷ xả. Tùy hỷ
là khi thấy trên từ chư Phật, Thánh Nhơn, dưới cho đến các loại chúng sanh, có
làm được công đức gì, dù là nhỏ mọn cũng vui mừng theo. Và khi thấy ai được sự
phước lợi, hưng thạnh, thành công, an ổn, cũng sanh niệm vui vẻ mừng giùm.
Hỷ xả là dù có chúng sanh làm
những điều tội ác, vong ân, khinh hủy, hiểm độc, tổn hại cho người hoặc cho
mình, cũng an nhẫn vui vẻ mà bỏ qua. Sự vui nhẫn này nếu xét nghĩ sâu, thành ra
không thật có nhẫn, vì tướng người, tướng ta và tướng não hại đều không. Nên
Kinh Kim Cang dạy: "Như Lai nói nhẫn nhục Ba La Mật, tức chẳng phải nhẫn
nhục Ba La Mật, đó gọi là nhẫn nhục Ba La Mật."
Lòng tùy hỷ trừ được chướng tật đố nhỏ nhen. Lòng hỷ xả giải được
chướng hận thù báo phục. Bởi tâm hoan hỷ không ngoài sự giác ngộ
mà thể hiện, nên đó chính là lòng Bồ Đề. Dùng lòng hoan hỷ như thế mà hành đạo,
mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
Điểm
thứ năm là Sám Nguyện Tâm
Trong kiếp luân hồi, mọi loài
hằng đổi thay làm quyến thuộc lẫn nhau. Thế mà ta vì mê mờ lầm lạc, từ kiếp vô
thỉ đến nay, do tâm chấp ngã muốn lợi mình nên làm tổn hại chúng sanh, tạo ra
vô lượng vô biên ác nghiệp. Thậm chí đến chư Phật, Thánh Nhơn, vì tâm đại bi ra
đời thuyết pháp cứu độ loài hữu tình, trong ấy có ta, mà đối với ngôi Tam Bảo
ta lại sanh lòng vong ân hủy phá. Ngày nay giác ngộ, ta phải hổ thẹn ăn năn,
đem ba nghiệp chí thành sám hối.
Đức Di Lặc Bồ Tát đã lên ngôi
Bất Thối, vì muốn mau chứng quả Phật, mỗi ngày còn lễ sám sáu thời. Vậy ta phải
đem thân nghiệp kính lễ Tam Bảo, khẩu nghiệp tỏ bày tội lỗi cầu được tiêu trừ,
ý nghiệp thành khẩn ăn năn thề không tái phạm. Đã sám hối, phải dứt hẳn tâm hạnh ác không còn cho tiếp tục nữa, đi đến
chỗ tâm và cảnh đều không, mới là chân sám hối. Lại phải phát nguyện, nguyện
hưng long ngôi Tam Bảo, nguyện độ khắp chúng sanh, để chuộc lại lỗi xưa và đền
đáp bốn ân nặng. Bốn ân đó là: ân Tam Bảo, ân cha mẹ sư trưởng, ân thiện hữu
tri thức, và ân chúng sanh.
Có tâm sám nguyện như vậy tội
chướng mới tiêu trừ, công đức ngày thêm lớn, và mới đi đến chỗ phước huệ lưỡng
toàn. Dùng lòng sám nguyện như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
Điểm thứ sáu là Bất Thối
Tâm
Dù đã sám hối phát nguyện tu
hành, nhưng nghiệp hoặc ma chướng không dễ gì dứt trừ, sự lập công bồi đức thể
hiện sáu độ muôn hạnh không dễ gì thành tựu. Mà con đường Bồ Đề đi đến quả Viên
Giác lại xa vời dẫy đầy gay go chướng nạn, phải trải qua hằng sa kiếp, đâu phải
chỉ một hai đời?
Ngài Xá Lợi Phất trong tiền kiếp
chứng đến ngôi Lục Trụ, phát đại Bồ Đề tâm tu hạnh bố thí. Nhưng khi chịu khổ
khoét một con mắt cho ngoại đạo, bị họ không dùng, liệng xuống đất rồi nhổ nước
dãi, lấy chân chà đạp lên trên, Ngài còn thối thất Đại Thừa tâm. Thế thì ta thấy
sự giữ vững tâm nguyện là điều không phải dễ!
Cho nên hành giả muốn được đạo
tâm không thối chuyển, phải lập thệ nguyện kiên cố. Thề rằng: "Thân này dầu bị vô lượng sự nhọc nhằn
khổ nhục, hoặc bị đánh giết cho đến thiêu đốt nát tan thành tro bụi, cũng không
vì thế mà phạm điều ác, thối thất trên bước tu hành." Dùng lòng Bất Thối
chuyển như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
Sáu yếu điểm đã dẫn đại lược
như trên, là sự kiện phải có của người phát Bồ Đề tâm. Nếu không y theo đây lập
chí thiết thật tu hành, thì dù nói phát tâm chỉ là phát tâm suông, không thể
nào đi đến Phật quả. Trước mặt chúng ta chỉ có hai đường: luân hồi và giải
thoát. Đường giải thoát tuy có lắm nỗi gian nan, nhưng mỗi bước đi lần đến chỗ
sáng suốt tự tại an vui.
Đường luân hồi dù được tạm hưởng
phước nhơn thiên, nhưng kết cuộc phải chuyển đến cảnh tam đồ ác đạo, sự khổ vô
biên không biết kiếp nào ra khỏi. Vậy các vị đồng tu nên phát tâm mãnh tiến, bước
thẳng lên đường sáng đại Bồ Đề. Cảnh muôn hoa đua nở nơi chân trời giải thoát sẽ
đón chào các vị!
PHÁT NGUYỆN 1 ĐỜI
VÃNG-SANH
BẤT-THOÁI-CHUYỂN LÀM
TÔNG
( tức là
PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM của HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN-TÂM )
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
TÍCH TRƯỢNG (TRONG CHỨNG ĐẠO CA) là Cây tích trượng, mà người xuất gia thường dùng
khi đi hành cước. Cây gậy này có hai cái vòng, tượng trưng cho “chân
đế và tục đế”. (BỒ-TÁT ĐỊA-TẠNG CŨNG THƯỜNG DÙNG “CÂY TÍCH-TRƯỢNG”
NẦY, ĐỂ MỞ CỬA ĐỊA NGỤC CỨU TOÀN
CHÚNG SANH) .
Trong tay đã sẵn gậy vàng,
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh.
Mỗi vòng lại có ba cái khoen, hai vòng thành sáu khoen, tượng trưng cho lục độ vạn hạnh. Năm
xưa, một vị cổ đức dùng tích trượng rẽ đôi một cặp hổ đương khi chúng đấu với
nhau kịch liệt. Ðời sau người ta kêu tích trượng là cây gậy giải cọp.
Hàng
long bát, giải hổ tích,
Lưỡng
cổ kim hoàn minh lịch lịch.
Bất thị
tiêu hình hư sự trì,
Như
Lai bảo trượng thân tung tích.
Ðịa Tạng Bồ Tát
PHÁT
BỒ-ĐỀ-TÂM
Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật,
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề.
KINH-VĂN:
Khi nghe Ðức
Phật Như Lai tuyên bày ngợi khen Ngài Ðịa-Tạng Ðại Sĩ xong, Ngài Phổ Quảng Bồ Tát liền quỳ xuống
chắp tay mà bạch cùng Ðức Phật rằng:
“Bạch Thế-Tôn!
Từ lâu con rõ biết vị Ðại Sĩ này có
thần lực cùng đại nguyện lực không
thể nghĩ bàn như thế rồi, song nay vì
muốn những chúng sanh trong đời sau này rõ biết các sự lợi ích đó, nên con mới
bạch hỏi cùng đức Như Lai.
Vâng! Con xin
cung kính tin nhận lời Phật dạy.
Bạch đức Thế-Tôn! Kinh này đặt tên là gì và định cho con lưu bố
thế nào?'
Ðức Phật bảo
Ngài Phổ Quảng: Kinh này có ba danh hiệu:
1) Một là “Ðịa-Tạng Bổn Nguyện
Kinh”,
2) Cũng gọi là “Ðịa-Tạng Bổn Hạnh
kinh” đây là tên thứ hai,
3) Cũng gọi là “Ðịa-Tạng Bổn Thệ
Lực kinh” đây là tên thứ ba.
Do vì Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát từ thuở kiếp
lâu xa đến nay phát nguyện rộng lớn làm lợi ích cho chúng sanh, cho
nên các ông phải đúng theo tâm nguyện mà lưu hành truyền bá kinh này'.
Nghe Ðức Phật dạy xong, Ngài Phổ Quảng Bồ Tát tin chịu, chắp tay
cung kính lễ Phật lui ra.
Lời bàn:
Đức Phật thuyết kinh thì PHẢI có
những người đương cơ, thay mặt cho ĐẠI CHÚNG, hỏi PHẬT hoặc TRANH LUẬN VỚI PHẬT,
như PHỔ QUẢNG BỒ-TÁT hỏi PHẬT chẳng hạn. Khi tất cả ĐẠI CHÚNG TIN CHỊU, THÌ MỚI Y GIÁO PHỤNG
HÀNH. TẤT CẢ KINH ĐỀU NHƯ VẬY CẢ.
Còn kinh “VÔ VẤN TỰ THUYẾT”, như KINH A DI ĐÀ thì sao? Ai là chúng
ĐƯƠNG CƠ?
Chính là hằng hà sa số CHƯ PHẬT Ở SÁU PHƯƠNG LÀM CHÚNG ĐƯƠNG CƠ.
KINH-VĂN:
Xá- Lợi- Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của
các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn
của Ta mà nói lời này:
“Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở
trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền trược, não
trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế
gian khó tin này”.
Xá- Lợi- Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc
khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh
pháp khó tin này, đó là rất khó! ( PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ, CÒN KHÓ HƠN LÀ
Ở CÕI TA-BÀ NGŨ-TRƯỢC TU CHỨNG VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC).
KINH ĐỊA TẠNG : Từ phẩm thứ 7 cho đến phẩm thứ 13 là “TRUYỀN BÁ LƯU
THÔNG” CHO CHÚNG SANH BIẾT ĐƯỢC KINH NẦY. TỨC LÀ LÀM CHO CHÚNG-SANH THẤY NGHE ĐƯỢC BỔN NGUYỆN, BỔN HẠNH VÀ THẦN LỰC BẤT KHẢ TƯ NGHÌ CỦA ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT,
MÀ Y THEO ĐÓ TU HÀNH “PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM”. VẬY AI LÀM VIỆC NẦY? CHÍNH LÀ “BỒ-TÁT
QUÁN THẾ ÂM”.
KINH-VĂN:
Ðức
Phật bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát: “Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát có nhơn duyên rất lớn
với cõi Diêm Phù Ðề. Nếu nói về những sự mà các hàng chúng sanh thấy hình nghe tên của Ngài Ðịa-Tạng Bồ
Tát được lợi ích, thời dầu nói đến trong trăm nghìn kiếp cũng không biết được.
Này Quán Thế Âm Bồ Tát! Vì thế Ông nên dùng thần lực mà lưu truyền kinh này
làm cho chúng sanh trong cõi Ta Bà đây mãi đến trăm nghìn kiếp được hưởng những
sự an vui luôn”.
Tóm lại, nếu Qúy-vị trì thủ nhãn này, tức PHÁT Bồ-đề
quảng ĐẠI NGUYỆN, tức là ĐẠI-NHÂN của
BỒ-TÁT TU HÀNH LỤC ĐỘ VẠN HẠNH, sẽ thành tựu QỦA PHẬT.
Kệ tụng:
Đại từ đại bi cứu quần sinh
Đại hỷ đại xả ích hàm manh
Đại nguyện đại
nhân bồ tát đạo
Đại hùng đại lực
Phật quả thành.
Tích-Trượng
Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ
Ba Mươi Ba
Di Đế Rị Dạ [48]
Án-- na lật thế, na
lật thế,
na
lật tra bát để, na lật đế na dạ bát nảnh,
hồng phấn tra.
BIẾT TRƯỚC 24 NĂM SAU
VÃNG-SANH TÂY-PHƯƠNG
(HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN-TÂM)
“SÁU TÁM lắm gian nan,
Nhơn quả chớ than van.
Gặp NINH thời ĐẠI đến,
Gặp PHÚ ắt bình AN.
LIÊN HƯƠNG thơm sực nức,
Còn chút nghiệp phải mang.
Ngọt chua hai bốn chẳn,
THÂN xuất đáo LIÊN BANG”.
(Từ năm 1968-1992)
TIN-TỨC TÂY-PHƯƠNG
Sáu tám năm qua, sắp đến ngày,
Trời Tây con trẻ mộng hồn bay.
Trong mơ kính lễ cha già hỏi:
Tin tức chừng nao mới đáo lai?
(Đầu năm 1992)
QUY KỲ VỊNH
Tam thử, Mão thời quy,
Lai, khứ thiểu nhơn tri.
Lục bát trần duyên mãn,
Thân xuất đáo Tây kỳ.
TAM-THỬ LÀ NGÀY GIÁP-TÝ, THÁNG-TÝ, NĂM KIẾN NHÂM-TÝ
tức là NGÀY 21, THÁNG 11 âm lịch, năm 1992, VÃNG-SANH TÂY-PHƯƠNG.
MÃO-THỜI LÀ GIỜ MÃO, tức là lúc 6 giờ 15 phúc sáng
2 BÀI TỰ-CẢM CUỐI CÙNG
Sáu tám nhọc nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi chí không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.
Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT-NIỆM,
DI-ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.
Đêm đó (20 rạng 21) Hòa thượng ngồi trước bàn Phật (ở trên “TRÚC LIÊN BỔN THẤT” nơi cố HÒA THƯỢNG ẨN TU) trì niệm suốt buổi. Đến 3 giờ sáng, ngài biết thời khắc vãng sanh sắp đến nên mở mắt ra, truyền lịnh cho ni sư trưởng tử triệu chúng vào trong tịnh thất hộ niệm.
Kế đó Hòa thượng bước xuống lầu rửa mặt, nghiêm chỉnh y hậu xong ngài an tọa vào trên chiếc ghế nơi mà ngài vẫn thường ngồi để tịnh niệm thường nhật, tay trái kết ấn “Di Đà định”, tay mặt lần chuỗi niệm Phật.
Trước mặt Đại sư là ni sư trưởng tử và các đồ chúng nơi Phương Liên tịnh xứ vân tập đầy đủ. Đồ tôn là tỳ kheo Thích nữ Bảo Đàn thỉnh bức tượng tranh của đức A DI ĐÀ Thế tôn đứng trong vị thế tiếp dẫn đặt nơi trước mặt ngài. Các môn đồ, pháp quyến vừa rơi lệ khóc thầm, vừa cất cao tiếng hộ niệm …
Đại sư mỉm cười thốt lời an ủi rằng:
- Hãy bình tâm lại, đừng có khóc nữa. Ta được về Tây là điều hân hạnh, các con hãy theo đó mà cố gắng niệm Phật chuyên cần. Nếu được như vậy, ắt một ngày kia sẽ cùng hội ngộ nhau nơi miền An dưỡng.
Còn các việc thành, bại, vinh hư trên cõi đời này, chẳng phải là chỗ quan tâm đến của ta.
Đoạn ngài đọc bài kệ rằng:
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
Tuyên xong lời kệ sau cùng này, ngài ngồi yên trên ghế, nhắm mắt như vào trong định. Đại chúng biết chắc. Đại sư sắp sửa quy Tây, nên đồng cất cao tiếng hộ niệm, mỗi lúc càng thêm khẩn thiết.Đến 6 giờ 15 phút (giờ Mẹo) Đại sư bỗng mắt ra, chấp tay nói:
TA ĐI ĐÂY – ĐẠI CHÚNG NÊN BẢO TRỌNG
Đoạn nhắm mắt lại, tay trái ngài vẫn kết ấn DI ĐÀ Định, tay mặt buông xuôi xuống, xâu chuỗi từ trên tay ngài rơi xuống chiếu và ngài lặng im, an nhiên thoát hóa ngay trên bản tọa.
VÔ NHẤT ĐẠI SƯ THÍCH THIỀN TÂM
MỘT CAO TĂNG CẬN ĐẠI
Soạn Giả: Ưu Bà Di, Bồ Tát Giới BẢO ĐĂNG
Giảo Chánh: Sa môn THÍCH HẢI QUANG
Xuất Bản: Pháp Hoa Tự, Tucson-Arizona
Bản điện tử: Tạng Thư Phật Học
---o0o---
48) Di Đế Rị Dạ
Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì
tụng câu chú Di Đế Rị Dạ, thì Bồ-tát ĐẠI-XA sẽ “XUẤT HIỆN”, giúp cho Qúi vị mau thành tựu “TÂM”
ĐẠI TỪ, ĐẠI BI, ĐẠI HỶ, ĐẠI XẢ…nói chung thì “VÔ-LƯỢNG VÔ-BIÊN” công hạnh đều được thành tựu.
Ngài thường dùng TÍCH-TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP, để giúp cho Qúi vị sớm thành tựu “BỒ-ĐỀ-TÂM”.
BỔN-THÂN
NGÀI ĐẠI-XA BỒ-TÁT
( Thường TRÌ “TÍCH-TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, để giúp cho Qúi vị mau thành tựu
“TÂM” ĐẠI TỪ, ĐẠI BI, ĐẠI HỶ, ĐẠI XẢ”…nói
chung thì “VÔ-LƯỢNG VÔ-BIÊN” công hạnh
được thành tựu.
Và ngược lại nếu “QÚI
VỊ” Thường TRÌ TÍCH-TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP,
thì Qúi vị là “HÓA THÂN” của Bồ-tát ĐẠI-XA,
nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)
Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “TÍCH-TRƯỢNG
THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Bồ-tát ĐẠI-XA
sẽ “XUẤT HIỆN”, để cảm hóa những người “ÁC”
bằng “VÔ LƯỢNG PHƯƠNG TIỆN” như
là: TỪ, BI, HỶ,XẢ…
Lại còn giúp cho những người trì “THỦ NHÃN
NÀY” ĐƯỢC ĐẠI AN ỔN, DÙ CHO Ở “TRONG GIẤC MỘNG” CŨNG ĐƯỢC SÁNG SUỐT
KHÔNG MÊ MỜ.
Cho nên, Qúy vị sẽ được phước báo không cùng
tận, có khả năng HÀNH-THÂM BÁT NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA, rồi sau cùng chứng
được qủa BỒ-ĐỀ của PHẬT.
Kệ tụng
:
Từ bi
thị hiện hóa ác nhân
Đắc đại
an ổn mộng thần thanh
Cánh
hoạch phước báo vô hữu tận
Bồ đề
bát nhã tự hành thâm
KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”
HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN
KỆ TỤNG
HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng
48. Di đế rị dạ
Di
đế rị dạ. Hán dịch là “ chánh lượng”. Cũng dịch là “đại lượng”; nghĩa là số
lượng rất nhiều, không đếm được. Còn dịch là “đại từ bi tâm” nghĩa là tâm từ bi
quá rộng lớn, không có ngằn mé. Tâm từ bi này bảo hộ che chở cho tất cả mọi
loaì chúng sanh và giúp cho họ được an vui, khiến cho chúng sanh thể nhập với
bản tâm của mình, thoát khỏi sợ hãi và tránh xa mọi tai ương.
Đây
là Tích thượng thủ nhãn ấn pháp.
Trên đầu tích trượng có chín vòng tròn bằnh đồng. Lúc xưa, người xuất gia đi
đâu cũng mang theo tích trượng. Mỗi khi đi đường, chín vòng kim loại này sẽ tạo
nên âm thanh, báo động cho các loài côn trùng tránh xa để khỏi bị dẫm đạp lên
mình. Tích trượng là một loại pháp khí trong Phật giáo. Bồ tát Địa Tạng thường
dùng tích trượng như là chìa khóa để mở cửa các địa ngục.
Vì vậy nên hành giả
tu tập ấn pháp này phải nuôi dưỡng lòng từ bi rộng lớn, phát nguyện cứu giúp
cho toàn thể mọi loài chúng sanh.
ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)
Comments
Post a Comment