Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ 13


Mạ Mạ [34]

Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế,

                                    mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, 

                                nên cầu nơi Tay cầm cây Phất-Trần.”                 

               
Thần-chú rằng: Mạ Mạ [34]

Chơn-ngôn rằng: Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã   
                                            nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:



Túc thế sát nghiệp trọng như sơn

Dục tu thánh đạo chướng vô biên

Hạnh hữu đại bi bạch phất thủ

Khinh tảo số số chúng nan quyên.



(Từ vô-luợng kiếp đến nay, Ta đã tạo “nghiệp-sát”, nên tội trọng nặng như núi,

Nay muốn tu “THÁNH ĐẠO”, lại bị vô-biên nghiệp-chướng ngăn cản, rất khó tu hành.

Lành thay! Lành thay!  Gặp được “Cây Phất-Trần” đại từ đại bi của Bồ-tát Quán-Thế-Âm,

Quét sạch nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước của Ta đã tạo.)



Theo kinh “NHÂN QUẢ BA ĐỜI” thì nghiệp chướng chồng chất lên nhau thay đổi theo từng sát na sinh diệt, theo tâm niệm và hành vi  “TRONG NHIỀU KIẾP TRƯỚC”   “HIỆN TẠI” của mỗi người. Nhân nào mạnh hơn hết thì qủa đến trước, cứ thế mà nhân-quả từng tự nói tiếp nhau liên tục không dừng.


Nếu nghiệp chướng là  “NHÂN QUẢ” cố định, thì  tại sao Vua Ca-Lợi cắt đứt tay chân của Đức Phật, mà được đức Phật độ cho giải thoát trước tiên? Vậy có phải là do NGUYỆN LỰC của đức phật, đã làm tiêu nghiệp chướng cho Vua Ca-Lợi rồi sao?

( KINH KIM CANG)

 

Vua Ca-Lợi trong kiếp trước, kiếp này là KIỀU TRẦN NHƯ


Đức Phật trong kiếp này, kiếp trước là một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục bị  Vua Ca-Lợi cắt đứt tay chân .


Cho nên, nếu qúi vị “TỤNG” thủ nhãn này là “NHÂN”, thì bồ tát sẽ dùng cây phất trần “Quét sạch nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước” của qúi vị là QUẢ. Vì  “TÂM LỰC CỦA MÌNH”, và  “PHÁP LỰC NGUYỆN LỰC” đại từ đại bi của CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI, TỨC LÀ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM TRONG ĐỜI HIỆN TẠI thật sự là không thể nghĩ bàn.

(KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI)

 

“NHÂN QỦA” cố định ( là nghiệp đã tạo “cực thiện” hay “cực ác” thì gọi là “định-báo”  vì quả phải trả trước hết, tức  là rất mạnh, rất nhanh. CỰC THIỆN như người vãng sanh CỰC LẠC trong khải móng tay và CỰC ÁC như  VUA LƯU LY ĐƯƠNG SỐNG MÀ BỊ ĐỌA VÀO ĐỊA NGỤC A TỲ.)


Như Tỷ-khưu-ni Bảo-liên-hương giữ Bồ-tát-giới, lén-lút làm việc dâm-dục, lại nói-càn rằng làm việc dâm-dục không phải giết người, không phải trộm-cắp, không có nghiệp-báo; phát-ra lời nói ấy rồi, trước hết nơi nữ-căn sinh ra ngọn lửa-hồng lớn, về sau từng đốt, từng đốt, bị lửa đốt cháy, sa vào địa ngục Vô-gián.

Như đại-vương Lưu-ly; Tỷ-khưu Thiện-tinh; Lưu-ly vì giết họ-hàng Cù-đàm, Thiện-tinh vì nói-càn tất-cả các pháp đều rỗng-không mà thân sống sa vào địa-ngục A-tỳ.



KINH LĂNG NGHIÊM



ĐỊNH BÁO


Là quả báo nhất định phải chịu, không thể chuyển biến được, bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười )



Thuở xưa vua Lưu-Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, Ðức Thế-Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là định nghiệp.

Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp xong hàng Thích-Chủng, thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ.


Cho nên, chư Phật có  “Tam năng” (ba việc làm được) và “tam bất năng” (ba việc không làm được).



Có ba việc làm được là :

 

1) Chư Phật có thể “KHÔNG” tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp.

2) Chư Phật có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng-sanh, rõ thấu tất cả việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai.

3) Chư Phật có thể độ vô-lượng chúng-sanh.

 


Ba việc làm không được là :

 

1. Chư Phật không thể diệt được định nghiệp của chúng-sanh.

2. Chư Phật không thể độ những chúng-sanh vô duyên.

3. Chư Phật không thể độ hết chúng-sanh giới.

 


Bởi thế, "SỨC NGƯỜI" cố nhiên là hữu hạn, nhưng "SỨC PHẬT" cũng không phải là TOÀN NĂNG.


Nếu chúng-sanh không tín hướng Ðức Như-Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể hóa độ được.

Nếu chúng-sanh tín hướng Ðức Như-Lai, thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng có thể hóa độ được.


NHƯ VUA LƯU LY, NẾU NGHE THEO LỜI CAN NGĂN CỦA ĐỨC PHẬT, THÌ ĐƯƠNG SỐNG KHÔNG BỊ ĐỌA VÀO ĐỊA NGỤC A TỲ (LÀ SỰ ĐAU KHỔ KHÔNG HỀ ĐƯỢC GIÁN ĐOẠN). 

 

Cho nên, “NGHIỆP LỰC THÙ HẬN” của vua lưu-ly cũng thật sự “BẤT KHẢ TƯ NGHÌ”, cho dù “ĐỨC PHẬT” cũng không thể ngăn cản được.


Tóm lại, nếu qúi vị tu Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp” thì chuyển “ĐỊNH NGHIỆP” thành “BẤT ĐỊNH NGHIỆP”; chuyển “VÔ DUYÊN” thành “HỮU DUYÊN” ; chuyển “CHÚNG SANH KHÔNG ĐỘ ĐƯỢC”  thành “CHÚNG  SANH ĐỘ ĐƯỢC” phải không ? 



“Quét sạch tất cả nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước của qúi vị đã tạo.”


PHẬT HỌC TINH YẾU 


Kệ tụng:

 

Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
Chấn động tam thiên thế giới thì
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm-phù-đề.


34. Mạ Mạ

 

Mạ Mạ. Hán dịch là “ngã sở thọ trì”. Đó chính là một loại mệnh lệnh hành động. Có nghĩa là “mọi việc tôi làm bảo đảm chắc chắn phải được thành tựu”.

 

Mạ Mạ là Bạch phất thủ nhãn ấn pháp. ở Trung Hoa, các đạo sĩ và Tăng sĩ Phật giáo thường sử dụng phất trần, các vị cao tăng thường cầm phất trần khi đăng bảo toạ để thuyết pháp.


Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọi ma chướng sinh ra bệnh tật.


Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều công dụng, nhưng người biết cách dùng ấn pháp này lại rất ít. Tôi biết hiện nay có rất ít người sử dụng được ấn pháp này.


Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.

 

Bình thường, tôi chẳng muốn đến phi trường nhưng trong chuyến bay ấy có chở về vài tượng Phật, nên tôi ra phi trường để nghênh đón tượng Phật chứ không phải để đón các đệ tử của tôi. Các đệ tử của tôi cũng không cần tôi đón, cũng chẳng cần đưa. Khi họ đi Đài Loan thọ giới, tôi đã nói với họ rằng:

 

“Khi mê thì thầy độ
Khi ngộ rồi tự độ”.

 

Nay họ phải tự độ chính họ, họ đã ra đi, nay lại trở về. Chắc chắn họ phải tự tìm ra con đường từ phi trường về chùa. Họ chẳng cần tôi phải chỉ dẫn: “Quẹo ở đó, đi theo đường này, đó là đường về chùa”.

 

Điều buồn cười nhất là khi họ viết thư báo cho tôi biết họ đã bỏ quên một thùng Kinh. Tôi bảo:

 

“Bỏ quên kinh chẳng có gì quan trọng. Điều quan trọng chính là không có ai trong các con bị bỏ quên”. Năm người đi thọ giới và nay năm người đều đã trở về. Sao vậy? Vì tôi đã mua bảo hiểm ở chư vị Bồ – tát, nên để cho bất kỳ ai bị bỏ sót lại là điều không thể chấp nhận được. Nếu một người không về, tức là chư vị Bồ – tát không thực hiện đúng hợp đồng. Thế nên tôi rất tin tưởng rằng tất cả các giới tử sẽ trở về và dịch vụ bảo hiểm của chư vị Bồ – tát không cần phải thanh toán hợp đồng.

 

Quí vị nên nhớ một điều. Những người thọ giới Cụ túc trở về hôm nay là những vị Tổ khai sơn của Phật giáo Mỹ quốc. Đừng xem việc này đơn giản. Điều này rất chân thực. Đừng như những kẻ tự cho mình là Phật tử, chỉ nằm ở nhà mà thích gọi mình là “Tổ tại gia”. Thực vậy, cách đây vài hôm, có một vị Tổ sư tự phong đến đây và muốn hát tặng cho tôi nghe. Tôi giễu cợt ông ta: “Thật chán khi nghe ông hát”. Ông ta chỉ bật lên: “ồ!”, một tiếng rồi bỏ đi.



34. MẠ MẠ ....  PHẠT MA RA

BỔN THÂN NGÀI ĐẠI HÀNG MA KIM CANG



Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ 13


Mạ Mạ [34]

Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế,

                                    mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.



 

Hóa-Cung-Điện Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ 36

 

Phạt Ma Ra [34]

Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.


 

36.  The Transformation Palace Hand and Eye
        
Hóa-Cung-ĐiệnThủ Nhãn Ấn Pháp



Theo trong KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúy vị trì tụng câu chú MẠ MẠ ....  PHẠT MA RA  thì BỔN THÂN NGÀI ĐẠI HÀNG MA KIM CANG  sẽ  “XUẤT HIỆN”.


Đây là đấng “TỐI THÙ THẮNG, VÔ CẤU NHIỂM” đã thành tựu BẠCH PHẤT THỦ NHÃN ẤN PHÁP HÓA CUNG ĐIỆN THỦ NHÃN ẤN PHÁP, Tay thường cầm KIM LUÂN, giúp cho Qúy vị :

 

1.  LÌA BỎ TẤT CẢ SỰ CẤU UẾ, THÂN TÂM ĐƯỢC THANH TỊNH.

2. ĐỜI ĐỜI KIẾP KIẾP THƯỜNG Ở TRONG CUNG ĐIỆN PHẬT, KHÔNG THỌ SANH Ở BÀO THAI.

 

Nếu “QUÝ VỊ” Thường TRÌ BẠCH PHẤT THỦ NHÃN ẤN PHÁP HÓA CUNG ĐIỆN THỦ NHÃN ẤN PHÁP,  thì Qúy vị là “HÓA THÂN” của NGÀI ĐẠI HÀNG MA KIM CANG,  nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.

 


Kệ tụng :

 

Chiết phục ma ngoại hiện thần uy

Đại từ cứu thế pháp vương khôi

Bình đẳng phổ tế ba la mật

Hữu duyên chúng sanh hoạch yết đế.



Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG "BẠCH PHẤT THỦ NHÃN ẤN PHÁP" "HÓA CUNG ĐIỆN THỦ NHÃN ẤN PHÁP", THÌ NGÀI ĐẠI HÀNG MA KIM CANG “XUẤT HIỆN”, DÙNG TÂM ĐẠI TỪ BI, TÂM ĐẠI BÌNH ĐẲNG, TÂM ĐẠI TRÍ HUỆ (BA LA MẬT), TÂM ĐẠI THÙ THẮNG LÀM CHO CHÚNG SANH HỮU DUYÊN MAU ĐẠT ĐẾN BỜ GIẢI THOÁT NHƯ CHƯ PHẬT VẬY. NÓI CHUNG LÀ TẤT CẢ ĐỀU LÀ : YẾT ĐẾ YẾT ĐẾ … BỒ ĐỀ TÁT BÀ HA”.


LẠI CÒN, CÓ THỂ DÙNG “UY THẦN” CHIẾT PHỤC NHỮNG TÀ MA NGOẠI ĐẠO, TU THEO THIỆN PHÁP.



KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI XUẤT TƯỢNG

Hòa Thượng THIỀN TÂM Dịch ra VIỆT VĂN

 

KỆ TỤNG

Hòa Thượng TUYÊN HÓA Kệ tụng

 

 

ĐẠI BI CHÚ

 

Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa

Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU

CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)






13. The White Whisk Hand and Eye

 


The Sutra says: “For getting rid of evil obstacles and difficulties, use the White Whisk Hand.”
                          


The Mantra: Mwo mwo.

The True Words: Nan. Bwo now mi ning. Pe ye wa di
                           Mwo he ye re. Ye mwo he ning. Sa wa he. 



The verse:


With karma of past killing heavy as a mountain,
You wish to practice the Sagely Way, but obstacles are unbounded.
How fortunate to have the Great compassion White Whisk Hand.
Again sweep lightly, and again so that piled-up hardships vanish.



34. MÀMÀ 

 

MÀMÀ means “I, who accept and hold.” It is a kind of command, a call to action. It means, “Everything I do must certainly be successful!”

MÀMÀ is the White Whisk Hand and Eye. In China Taoist Masters Buddhist Monks usually carry a whisk Buddhist High Masters usually carry a whisk when they take the High Seat to speak the Dharma.

The White Whisk Hand and Eye is used to dispel all obstacles to the body, all karmic obstructions and painful illnesses. A few swats with the brush will cure you of your karmic obstacles or demon-obstacle sicknesses.

The White Whisk Hand and Eye has many uses, but the people who know how to use it are very few; I know that at present there are very few.

The first Westerners to have received the Complete Precepts are returning from Taiwan as genuine Bhikshus and Bhikshunis. They will arrive at the airport at 4:30 this afternoon on China Airlines, Flight 910. We have lots of cars today so all the Buddhist Lecture Hall Dharma protectors, as well as all the Buddhists in San Francisco who want to go to the airport to welcome them may go.

Originally I wasn’t going to go to the airport, but there are several Buddha images coming on the flight and I’m going to the airport to welcome them, not my disciples. My disciples don’t need me to welcome them and they don’t need me to see them off. When they left I told them,



“When deluded, one’s Master takes one across;

when enlightened, one takes oneself across.”

 

Now they have taken themselves across; they’ve run off and returned, and they can certainly find their way home from the airport. They don’t need me to tell them, “Turn there; take that road, that’s the road home…”

 

The funniest thing was when they wrote that they had lost a box of Buddhist Sutras. I said, “Losing a box of Sutras is not important. What is important is that none of you got lost.” Five of them left and five returned. Why? I had already bought insurance from the Bodhisattvas and so it was not permissible for any of them to get lost. Not one of them could fail to return. If one hadn’t returned, the Bodhisattvas would have had to pay on the policy. So I was quite confident that all of them would return together, and the Bodhisattvas’ insurance agents don’t need to pay the policy.

You should remember this clearly: those who are returning today are Pioneer American Buddhist Patriarchs. Don’t look upon them lightly. This is true and real. It’s not like people who call themselves Buddhist and sit at home as “stay-at-home” Patriarchs. A few days ago, in fact, one of the self-made Patriarchs came here and said he wanted to sing me a song. “I hate it when you sing!” I teased, and he said, “Oh!” and ran away.



34. MÀMÀ 

 

Repressing cults and demons with displays of awesome spirit,

His great compassion saves the world; he is a King of Dharma.

With magnanimous equality he rescues us, expansively perfecting paramitas.

Beings with and without affinities attain gate.

 

with the commentary of

THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA

 

Translated into English by

BHIKSHUNI HENG YIN

 

THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY

SAN FRANCISCO

1976




MAHAKARUNA  DHARANI


 

1. NAMO RATNATRAYÀYA

2. NAMO ARYA     

3. AVALOKITÉSHAVARAYA

4. BODHISATTVAYA

5. MAHASATTVAYA

6. MAHA KARUNIKAYA

7. AUM!

8. SAVALAVATI

9. SUDHANATASYA

10. NAMASKRITTVA NIMAN ARYA

11. AVALOKITÉSHAVARA LANTABHA

12. NAMO NILAKANTHA

13. SRI MAHAPATASHAMI

14. SARVAD VATASHUBHAM

15. ASHIYUM

16. SARVASATTVA NAMO PASATTVA NAMO BHAGA

17. MABHATETU

18. TADYATHA

19. AUM! AVALOKA

20. LOKATE

21. KALATI

22. ISHIRI

23. MAHABODHISATTVA

24. SABHO SABHO

25. MARA MARA

26. MASHI MASHI RIDHAYU

27. GURU GURU GHAMAIN

28. DHURU DHURU BHASHIYATI

29. MAHA BHASHIYATI

30. DHARA DHARA

31. DHIRINI

32. SHVARAYA

33. JÁLA JÁLA

34. MÀMÀ BHÀMARA

35. MUDHILI 

36. EHY EHY 

37. SHINA SHINA

38. ALASHINBALASHÁRI

39. BASHÁ BHASNIN

40. BHARASHÁYA

41. HULU HULU PRA

42. HULU HULU SHRI

43. SARA SARA

44. SIRI SIRI 

45. SURU SURU 

46. BUDDHÀYA BUDDHÀYA

47. BODHÀYA BODHÀYA

48. MAITRIYÉ 

49. NILAKANSTA

50. TRISA RANA

51. BHAYA MANE

52. SVAHA

53. SITAYA

54. SVAHA 

55. MAHA SITAYA 

56. SVAHA

57. SITAYAYE

58. SHVARAYA

59. SVAHA

60. NILAKANTHI

61. SVAHA 

62. PRANILA

63. SVAHA 

64. SHRISINHAMUKHAYA

65. SVAHA

66. SARVA MAHA ASTAYA

67. SVAHA 

68. CHAKRA ASTAYA

69. SVAHA 

70. PADMAKÉSHAYA

71. SVAHA

72. NILAKANTÉ PANTALAYA

73. SVAHA 

74. MOPHOLISHAN KARAYA

75. SVAHA

76. NAMO RATNATRAYAYA

77. NAMO ARYA

78. AVALOKITÉ

79. SHAVARAYA

80. SVAHA 

81. AUM! SIDDHYANTU

82. MANTRA

83. PATAYA

84. SVAHA 





 
The Power of Patience


TIÊU TAI CÁT TƯỜNG cho đến thành PHẬT đều do “NHẪN” LỰC mà thành tựu


(Thông thường người đời chỉ TIN NHÂN QUẢ THẾ GIAN mà thôi, còn NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN thì không đủ NHẪN LỰC, để TIN ĐƯỢC NGUYỆN LỰC  CỦA CHƯ PHẬT, CHƯ BỒ TÁT…)


Comments

Popular posts from this blog