The Sutra says: “For the Way of the immortals, use the Five-colored Cloud Hand and
The Mantra: Mwo syi mwo syi.
The True Words: Nan. Wa dz la. Jye li la ja syin ja.
The verse:
Kinh nói rằng: “Nếu muốn được đạo tiên, nên cầu nơi Tay cầm hóa hiện
Mây-Ngũ-Sắc.”
Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.
Kệ tụng:
Vị đạo cầu tiên nguyện trường sinh
Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng
Toại tâm như ý thông biến hóa
Ngũ sắc tường vân túc hạ đăng.
[
]
Trong KINH LĂNG NGHIÊM có nói: “Có 10 chúng TIÊN, họ tu để được “TRƯỜNG SANH BẤT TỬ”, như chẳng theo chánh giác tu Tam Ma Địa, mà tu theo vọng niệm, giữ tâm củng cố hình hài, kiên cố dùng đồ bổ chẳng ngừng nghỉ, nên thành tựu đạo thực, gọi là Địa Hành Tiên.[1] .Kiên cố dùng cỏ cây chẳng ngừng nghỉ, nên thành tựu đạo thuốc, gọi là Phi Hành Tiên.[2]…”
Họ tự cho mình là “TRƯỜNG SANH BẤT TỬ, THỌ MẠNG SÁNH BẰNG TRỜI ĐẤT, KHÔNG TĂNG KHÔNG GIẢM”, nhưng thật ra họ vẫn còn trong vòng LUÂN HỒI SANH TỬ.
Dù họ có “THẦN THÔNG BIẾN HÓA NHƯ Ý”, nhưng cũng chỉ ở trong TAM GIỚI mà thôi, tuổi thọ có hàng VẠN NĂM, nhưng khi hết phước TIÊN, phải chịu đọa lạc trong SANH TỬ.
Vì vậy, BỒ-TÁT QUÁN-THẾ-ÂM thương sót khởi lòng ĐẠI-BI, dùng “ỨNG THÂN”, “HÓA THÂN” làm TIÊN để DẠY HỌ TRÌ “NGŨ SẮC VÂN THỦ NHÃN ẤN PHÁP” nầy, để giúp họ THÀNH TỰU TÂM NGUYỆN BAN ĐẦU CỦA MÌNH.(Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng)
Cũng như Phật Thích Ca tu khổ hạnh không ăn, cho đến chỉ còn xương với da, mà vẫn không chứng đạo, là để giáo hóa người tu khổ hạnh thời bấy giờ và trong vị lai.
“ỨNG THÂN” thì có lịch sử rõ ràng, như PHẬT THÍCH CA ứng thân trong cõi TA-BÀ, còn “HÓA THÂN” thì không có lịch sử, không biết từ đâu đến và đi về đâu, như BỒ-TÁT QUÁN THẾ- ÂM, hóa hiện vô-lượng thân, vô-lượng hình tướng khác nhau như làm kẽ ăn xin, bà già, cư-sĩ, Tỷ-khưu…để cứu khổ hoặc khai thị, xong rồi thì không biết NGÀI đi đâu mất dạng.
Lại nữa, khi Trì NGŨ SẮC VÂN THỦ NHÃN, thì không còn trụ ở ÂM THANH SẮC TƯỚNG , không còn trụ ở TAM TÂM TỨ TƯỚNG vì biết rằng đương thể là không, không cần đợi có thời gian hoại diệt mới biết là “KHÔNG”, là “HUYỄN”, thì bỏ được ngã chấp, RA KHỎI TAM GIỚI. Cũng như KINH KIM CANG nói:
Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thinh cầu ngã,
Thị nhơn hành tà đạo,
Bất năng kiến Như-Lai.
[
Nếu dùng sắc-tướng thấy PHẬT,
Dùng âm-thanh cầu PHẬT,
Người nầy hành theo TÀ-KIẾN,
Chẳng thấy được NHƯ-LAI.
]
TAM TÂM là Tâm qúa khứ, Tâm hiện tại, và Tâm vị lai.
TỨ TƯỚNG là Tướng ngã, Tướng nhơn, Tướng chúng sanh và Tướng thọ giả.
…bất luận về THÂN hay TÂM trong thế gian cùng xuất thế gian, mà do nhân duyên hòa hợp làm thành, đều là pháp hữu vi, đều là không thật thể, như mộng, huyễn, bào, ảnh…
Nhứt thiết hữu-vi pháp.
Như mộng, huyễn, bào ảnh.
Như lộ, diệc như điển,
Ưng tác như thị quán!
[
Tất cả pháp hữu-vi do nhân duyên sanh.
Khác nào huyễn cảnh, khác nào chiêm bao.
Như trăng dưới nước, như ảnh trong gương.
Khác nào bọt nước, hiệp tan khó lường.
Như ánh chớp, như điểm sương.
Thường hay Quán xét như vầy, chứng được thật tướng, mới là vô-sanh.
]
Hòa Thượng Tuyên Hóa lược giảng
Lời bàn: Thật ra tất cả các cõi uế-độ và Tịnh-độ trong 10 phương đều là mộng huyễn,
nhưng ở TỊNH ĐỘ thì chứng được bất thoái chuyển cho đến khi thành Phật.
Kệ tụng:
Vị đạo cầu tiên nguyện trường sinh
Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng
Toại tâm như ý thông biến hóa
Ngũ sắc tường vân túc hạ đăng.
(Giảng giải từng câu)
26) Ma Hê Ma Hê
Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì tụng câu chú Ma Hê Ma Hê, thì ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ sẽ “XUẤT HIỆN”, để TIẾP DẪN TẤT CẢ CHÚNG SANH VỀ CÕI TÂY PHƯƠNG CỰC-LẠC CỦA NGÀI.
BỔN-THÂN
ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ
( Thường trì Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp, để “Tiếp-dẫn” tất cả chúng sanh trong 10 phương
sanh về TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC CỦA NGÀI, THÌ CHỨNG ĐƯỢC “BẤT THOÁI CHUYỂN”, CHO TỚI KHI THÀNH
PHẬT.
Và ngược lại nếu “QÚI VỊ” THƯỜNG TRÌ Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp được THÀNH TỰU, thì Qúi vị là “HÓA THÂN” của PHẬT A-DI-ĐÀ, nghĩa là cũng làm được như Ngài vậy.)
Còn theo “KỆ TỤNG” thì BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM, TÙY THEO CĂN CƠ CỦA CHÚNG SANH
TRONG 10 PHƯƠNG, MÀ HIỆN VÔ LƯỢNG THÂN, VÔ LƯỢNG TAY MẮT (THỦ NHÃN), VÔ LƯỢNG
PHƯƠNG TIỆN NHƯ LÀ PHÁP: ĐẠI THỪA, TIỂU THỪA, QUYỀN THỪA, THẬT THỪA hoặc HIỂN
UY LỰC hoặc HIỆN THẦN THÔNG BIẾN HÓA...
ĐỂ GIÚP CHO NGƯỜI TU THỦ NHÃN NẦY, MAU ĐƯỢC THÂN KIM CANG BẤT HOẠI THƯỜNG TỰ TẠI, TỨC LÀ CHỨNG ĐƯỢC “PHÁP THÂN THƯỜNG TRỤ” CỦA CÁC ĐỨC NHƯ LAI.
Kệ tụng
:
Ứng cơ
thị hiện vô lượng thân
Đại tiểu
quyền thật hiển uy thần
Kim
cang bất hoại thường tự tại
Thiên
nhãn diêu quán thiên nhĩ văn
KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”
HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN
KỆ TỤNG
HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng
Kinh văn:
A Nan, lại có chúng sinh từ loài người, không nương theo chánh giác tu Tam ma địa, lại riêng tu theo vọng niệm, để tâm củng cố hình hài, đến nơi rừng núi, những chỗ người ta không đến được, thành mười thứ tiên.
Giảng giải:
A Nan, lại có chúng sinh từ loài người, không nương theo chánh giác tu Tam ma địa. Từ loài người, họ không tu hành chánh định, tu đại định Thủ Lăng Nghiêm, chẳng hành công phu quay trở lại tánh nghe để lắng nghe tự tánh, mà tu tập theo vọng tưởng. Có thể họ sẽ nghĩ, như: “Bây giờ ta tu hành, khi thành công mọi người sẽ thấy pháp thuật của ta; lúc đó họ sẽ tin ta, khâm phục ta, nghe theo lời của ta.” Đấy không phải là mục đích tu hành để thành Phật, họ chỉ muốn phát triển khả năng khéo léo để được mọi người khâm phục, phụng sự. Đấy là cách thể hiện lòng tham và ngu ngốc của chính mình như vậy, để tâm củng cố hình hài, đến nơi rừng núi, những chỗ người ta không đến được, thành mười thứ tiên. Họ vọng tưởng mình sẽ được trường sinh bất tử, thế nên họ đi vào rừng sâu, nơi không ai đến được.
Kinh văn:
A Nan, các chúng sinh kia, kiên cố dùng đồ bổ dưỡng mà không dừng nghỉ, khi đạo ăn được thành tựu thì gọi là Địa hành tiên.[1]
Giảng giải:
A Nan, các chúng sinh kia, kiên cố dùng đồ bổ dưỡng mà không dừng nghỉ. Họ dùng thức ăn, các dược chất, mục đích để được bất tử. “Kiên cố” – chỉ sự kiên trì thực hiện. Có người giải thích đó là lòng tin tuyệt đối khi thực hiện. Họ rất chuyên cần, ngày này qua ngày khác, luôn phát huy khả năng, luyện tập và dùng thuốc, chỉ mong được sống mãi. Khi đạo ăn được thành tựu thì gọi là Địa hành tiên. Kết quả, họ có được thân hình rất nhẹ khi đi đây đó. Họ có thể chạy cực nhanh, nhanh hơn cả đà điều ở nước Úc. Các thần tiên di hành như bay trên mặt đất như thế nên gọi là Địa hành tiên.
Kinh văn:
Kiên cố dùng cỏ cây mà không dừng nghỉ, khi đạo thuốc được thành tựu, gọi là Phi hành tiên.[2]
Giảng giải:
Kiên cố dùng cỏ cây mà không dừng nghỉ. Họ quyết định kiên trì và thực hiện cho bằng được. Nếu ai đó khuyên bảo thôi đi, họ không màng đến. Lòng họ cứng rắn hơn sắt đá. Họ tin vào cách thức tu luyện của chánh mình – đấy là luyện thảo dược, làm thức ăn hàng ngày. Khi đạo thuốc được thành tựu, gọi là Phi hành tiên. Thân thể họ nhẹ nhàng như khói thuốc, họ có thể đi trên mây, bay lơ lửng như sương.
Kinh văn:
Kiên cố dùng kim thạch và không dừng nghỉ, khi đạo hóa chất được thành tựu, gọi là Du hành tiên.[3]
Giảng giải:
Kiên cố dùng kim thạch và không dừng nghỉ. Tâm ý quyết định kiên trì thực hiện cho được việc. Họ trộn lẫn thủy ngân và chì, hoặc vàng và bạc, sau đó nấu đi nấu lại, luyện liên tục suốt bốn mươi chín ngày, hoặc hai mươi mốt ngày, thành một loại linh dược, gọi là thuốc trường sinh. Mục đích thành công của họ là trường sinh bất tử, thoát thai hóa cốt. Khi đạo hóa chất được thành tựu, gọi là Du hành tiên. Tu luyện được siêu thoát, họ có thể đi khắp đó đây theo ý muốn.
Kinh văn:
Kiên cố làm những động tác mà không dừng nghỉ, khi khí tinh thành tựu thì gọi là Du hành tiên.[4]
Giảng giải:
Kiên cố làm những động tác mà không dừng nghỉ, “làm những động tác”, chẳng hạn như luyện quyền thuật, tập Thái cực đạo, và tu hành tịnh công, như luyện tinh hóa khí, luyên khí hóa thần, luyện thần hoàn hư. Họ luyện tinh hóa khi cách nào? Họ ngồi thiền và không để tinh khí thoát ra ngoài. Họ không gần gũi đàn bà. Khi tinh không thoát nó ngược trở lại, người hành công phu làm cho tinh hóa khí, thành luồng khí. Luồng khí này sẽ hòa quyện khắp châu thân.
Đoạn tập trung tư tưởng biến hóa khí thành thần (tinh thần), từ thần lại trở về với hư không – cho đến khi chính mình như hư không. Sách Đạo Gia Ngọc Hoàng Tâm Ấn Kinh, viết: “Thượng dược có ba phẩm: thần và khí, tinh mơ hồ phảng phát, thăm thẳm mông mênh”. Khi khí tinh thành tựu thì gọi là Du hành tiên.
Kinh văn:
Kiên cố luyện nước bọt mà không dừng nghỉ, khi nhuận đức được thành tựu, thì gọi là Thiên hành tiên.[5]
Giảng giải:
Các giai đoạn trên nói về sự bất tử du hành trong không gian, ở đây sẽ thuật sự việc con người có thể đi lên cõi trời. Kiên cố luyện nước bọt mà không dừng nghỉ. Đặt lưỡi cong lên đốc họng để tiết ra nước bọt – nước bọt ấy, Đạo gia gọi là Ngọc dịch, là Cổ thiên trì. Khi nước bọt tiết ra nhiều thì nuốt vào bụng. Lão giáo cho rằng đó là linh đan bất diệt. Họ bảo:
Nếu muốn trường sinh và bất lão
Tất phải hồi tinh để nuôi dưỡng lão
Họ tập trung tâm ý chuyển tinh lên đỉnh đầu, tăng sức mạnh cho não. Khi nhuận đức được thành tựu, thì gọi là Thiên hành tiên. Khi thành công, mặt của họ sẽ hồng hào trẻ lại như đứa bé, mặc dù đã lớn tuổi. Đấy là các Thiên hành tiên.
Kinh văn:
Kiên cố hấp thụ tinh hoa mà không dừng nghỉ, khi hấp thụ được thành tựu, gọi là Thông hành tiên.[6]
Giảng giải:
Kiên cố hấp thụ tinh hoa mà không dừng nghỉ. Tâm ý của họ rất kiên định, vững chãi. Họ chuyên tâm hấp thụ tinh hoa của nhật, nguyệt để luyện pháp trường sinh. Khi hấp thụ được thành tựu, gọi là Thông hành tiên. Thông hành tiên có thể lên đến cõi trời, hoặc đi bất cứ nơi nào họ muốn. Họ thực hiện pháp ấy như thế nào? Có thể ví dụ: Buổi sáng, họ ngẩng nhìn mặt trời và hít thở ba trăm sáu mươi lần, buổi chiều tối, họ nhìn mặt trăng cũng làm như vậy. Họ dành hết thời gian để tu luyện cái bọc da của họ. Hòa thượng Hư Vân có viết: “Bài ca Cái Bọc Da” diễn tả điều ấy. Tu luyện để được bất diệt chánh là vận dụng năng lực tự thân để phát triển khả năng khéo léo, tinh tế.
Họ không biết đó cũng là năng lực tự tính. Sự khác biệt giữa Lão giáo và Phật giáo là Lão giáo muốn hiển bày cái khả năng đó, còn Phật thì không. Một đàng là trước nhiễm, vướng mắc, một đàng thì chủ trương vô trước. Sự trước nhiễm chánh là trở ngại, chướng ngại, nó khiến người ta không sao thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử được. Họ không đạt được chân lý tuyệt đối, không giải thoát được chính mình.
Năm hạng thần tiên như trên đã thuật qua và đều nói về sự “di hành”, chủ yếu là trên mặt đất, họ không vượt đến tầm cao hơn. Năm hạng tiên trình bày sau có tính cách khác hơn, mục đích hướng đến của họ cao xa hơn.
Kinh văn:
Kiên cố làm thuật phù chú mà không dừng nghỉ, khi thuật pháp được thành tựu thì gọi là Đạo hành tiên.[7]
Giảng giải:
Kiên cố làm thuật phù chú mà không dừng nghỉ. Đây là những kẻ kiên tâm trì tụng chú thuật. Chẳng hạn Lạt Ma ở Tây tạng, họ hành pháp rất tinh tế, khéo léo. Kiên cố làm thuật phù chú mà không dừng nghỉ. Họ trì tụng chú và luôn giữ giới cấm. Khi thuật pháp được thành tựu thì gọi là Đạo hành tiên.
Kinh văn:
Kiên cố chuyên chú tư niệm mà không dừng nghỉ, khi chuyên niệm được thành tựu thì gọi là Chiếu hành tiên.[8]
Giảng giải:
Kiên cố chuyên chú tư niệm mà không dừng nghỉ. Họ quay trở lại chính mình và tập trung tư tưởng – không dừng nghỉ, chú yếu là phát triển tử tưởng. Khi chuyên niệm được thành tựu thì gọi là Chiếu hành tiên. Khi tu luyện thành công thì thân có thể ra vào tự tại, khí có thể giao thông trên dưới, hình và thần tướng chiếu nhau, hóa ra ánh sáng.
Kinh văn:
Kiên cố về thủy hỏa giao cấu mà không dừng nghỉ, khi cảm ứng được thành tựu, thì gọi là Tinh hành tiên.[9]
Giảng giải:
Thông thường, “giao cấu” là nói đến sự quan hệ của nam và nữ, nhưng ở đây không có nghĩa như vậy. Hơn nữa, sự giao cấu lại xảy ra tự chính mình. Đạo Lão gọi điều ấy là “bé trai và bé gái”. Trong cá nhân người nào cũng có khả năng như vậy. Đấy không phải là vấn địa có thể tìm kiếm từ bên ngoài. Mỗi người đều có một đứa con trai và một bé gái trong chính mình.
Theo kinh Dịch, con trai thuộc quẻ ly, con gái thuộc quẻ khảm. Quẻ ly là “Trung hư”, quẻ khảm là “Trung mãn”.
Quẻ Ly thuộc tâm, quẻ Khảm thuộc thân. Vậy, giao cấu là chỉ sự giao cấu giữa thân và tâm, sự hòa hợp của thân và tâm. Quẻ Ly thuộc dương, nhưng trong dương có âm.Quẻ Khảm trong âm có dương.
Bé trai bé gái gặp nhau, tại sân vàng. Sân vàng là gì? Đấy là tâm, và pháp môn tu luyện của Đạo gia chủ yếu là hòa hợp, là giao cấu như vậy.
Kinh văn:
Kiên cố tập luyện biến hóa mà không dừng nghỉ, khi giác ngộ được thành tựu thì gọi là Tuyệt hành tiên.[10]
Giảng giải:
Kiên cố tập luyện biến hóa mà không dừng nghỉ. Đây là chuyên tâm tu luyện, nghiên cứu sự biến hóa vật lý. Khi thành công sẽ phát sinh kỳ ngộ. Khi giác ngộ được thành tựu thì gọi là Tuyệt hành tiên. Đây là thần tiên có khả năng dời non lấp biển. Họ có thể di chuyển ngọn núi từ nơi này sang nơi khác, hoặc chuyển đổi biển cả từ Đông sang Tây. Các tiên còn có quyền năng thay đổi mùa màng, thời tiết, biến mùa Xuân thành mua Thu…Họ biết được huyền cơ của trời đất, họ trở thành đấng sáng tạo từ chính họ, đấy gọi là Tuyệt hành tiên.
Kinh văn:
A Nan, bọn ấy ở trong loài người mà luyện tâm, mặc dù không tu chánh giác, nhưng riêng được lẽ sống, thọ ngàn vạn tuổi, nghỉ nơi núi sâu, hoặc trên đảo trong biển cả, cách tuyệt chỗ người ở, đấy cũng là vọng tưởng luân hồi lưu chuyển. Nếu như không tu pháp Tam muội thì khi quả báo hết rồi, quay trở lại tản vào trong các nẻo.
Giảng giải:
A Nan, bọn ấy ở trong loài người mà luyện tâm, mặc dù không tu chánh giác. Những người tu ấy tu luyện thân tâm, họ không tu pháp thiền Lăng Nghiêm của Như Lai – họ không tu hành theo chánh giác, nhưng riêng được lẽ sống, thọ ngàn vạn tuổi. Có nhiều pháp môn khác nhau, nhưng họ chọn pháp dưỡng sinh, nắm được đạo lý trường sinh, thọ mạng rất lâu dài, sau khi thành công, họ nghỉ nơi núi sâu, hoặc trên đảo trong biển cả, cách tuyệt chỗ người ở, những nơi ấy người thường không đến được. Đấy là cảnh non bồng nước nhược, nơi có bảy ngọn núi vàng, chung quanh núi là biển cả, đặc biệt, nước biển ở đây rất mềm, không có ghe thuyền nào đi được, cả một cọng lông chim rơi xuống nước cũng chìm sâu xuống. Nơi đấy chỉ có hàng phi tiên mới đến được. Tuy nhiên, đấy cũng là vọng tưởng luân hồi lưu chuyển. Nếu như không tu pháp Tam muội. Mặc dù thọ mạng có kéo dài hàng nghìn năm, họ vẫn ở trong vòng luân hồi, chưa chấm dứt con đường sinh tử. Lý do luân hồi là vì con trước nhiễm, còn tham muốn, đặc biệt là muốn trường sinh bất lão. Đấy là vọng tưởng, và họ cũng không tu hành chánh định, thì khi quả báo hết rồi, quay trở lại tản vào trong các nẻo. Khi thọ mạng chấm dứt, họ lại tái sinh, trở thành người bình thường, hoặc quỷ A Tu La, hoặc chư Thiên, hoặc sa vào địa ngục. Đấy là những nơi họ phải đến.
Comments
Post a Comment