26.
The Jeweled Halberd Hand and Eye
The Sutra says: “For warding off invading enemies, use
the Jeweled Halberd Hand.”
The Mantra: Mwo
he fa she ye di.
The
True Words: Nan. San mei ye. Jr ning he
li.
Hung pan
ja.
The
verse:
When
Jen Kuei stormed Korea; his bravery was matchless.
The
rescue from the quicksand revealed his uncommon strength.
After
Korea submitted to the Celestial rule,
That
country’s rebellious thieves vanished without a trace.
26) Bảo-Kích Thủ Nhãn Ấn Pháp
Kinh nói rằng: “Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phương khác đến, nên cầu nơi Tay
cầm cây Bảo-Kích.”
Thần-chú
rằng: Ma Ha Phạt
Xà Da Đế [29]
Chơn-ngôn rằng: Án-- thẳm muội dã, chỉ nảnh hạ rị,
hồng phấn
tra.
Kệ tụng:
Nhân
Quý chinh liêu dũng vô địch
Nê hà
cứu giá lập công kỳ
Cao ly
đầu hàng triều thánh đế
Tha
phương nghịch tặc tuyệt tông tích.
]
TIẾT NHÂN QÚY, Dũng Tướng vô địch, viễn chinh tới thành LIÊU NINH,
Không nại nguy hiểm mất mạng, Cứu VUA nên lập được
kỳ công.
Thuần phục quân CAO LY, đất nước an bình VUA được
tôn xưng là THÁNH ĐẾ,
Bởi vì không còn tông tích của giặc NGOẠI XÂM phương
khác nữa.
]
1) GIẶC BÊN NGOÀI:
Nếu Qúy-vị trì tụng thủ nhãn này, sẽ xua đuổi được giặc ngoại xâm ở phương khác đến, như TƯỚNG QUÂN NHÂN QÚY chẳng hạn. Đêm lại an vui thái bình thạnh trị, nên VUA được dân chúng tôn xưng là THÁNH ĐẾ ( bậc hiền quân chỉ BIẾT lo cho dân).
Lại nữa, nếu thường trì thủ nhãn này thì đất nước không bị giặc ngoại xâm. Bởi vì sao? Vì nhân của thủ nhãn này là an vui giải thoát, nên nhất định không có qủa khổ đao binh. Đây là BI NGUYỆN của BỒ-TÁT QUÁN-THẾ-ÂM sẽ làm cho tiêu nghiệp đao binh cho chúng ta, lớn thành nhỏ, nhỏ thành không.
2) GIẶC BÊN TRONG:
Giặc bên ngoài thì dẽ trừ vì có hình tướng, có chổ nơi.
Còn giặc trong “TẠNG THỨC” của chúng ta đã tạo từ vô lượng kiếp cho tới nay là “NGHIỆP CHƯỚNG”, “BÁO CHƯỚNG” và “PHIỀN NÃO CHƯỚNG” thì rất khó tiêu trừ, vì không hình tướng, không có chỗ nơi. Nếu có hình tướng, thì 10 phương hư không cũng không thể chứa hết được. (KINH HOA NGHIÊM)
VẬY PHẢI
LÀM SAO?
KINH
VĂN:
Đức Phật nói: “Lành thay! A-Nan, các ông nên
biết tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay chịu sanh tử tương tục do vì
không nhận ra “CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ”,
thể tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà nhận lầm các vọng tưởng. Các vọng tưởng này vốn chẳng chân thật,
thế nên bị luân chuyển.”
Nay ông muốn thấu rõ quả vị vô thượng bồ-đề
và phát minh chân tánh, ông phải dùng trực tâm đáp ngay lời Như Lai hỏi.
Mười phương Như Lai ra khỏi sinh tử, đều nhờ trực tâm. Do tâm và lời nói đều
ngay thẳng như thế, đến khoảng thời gian trước, sau, và thời kỳ trung gian
tuyệt nhiên không có lời nói quanh-co.
A-Nan, nay tôi hỏi ông: “Ngay khi ông vừa mới
phát tâm là do ông thích 32 tướng tốt của Như Lai, Vậy ông lấy gì để thấy và
ông ưa thích cái gì? A-Nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Sự yêu thích như thế là do TÂM và MẮT của con. Do mắt thấy tướng
thù thắng của Như Lai nên tâm ưa thích và phát tâm nguyện xả bỏ sinh tử.”
Đức Phật bảo A-Nan: “Như ông nói, thật chỗ
yêu thích là do tâm và mắt. Nếu ông
không biết tâm và mắt ở đâu thì không thể nào hàng phục
được trần lao.”
Ví
như quốc vương, khi có giặc đến xâm chiến nước mình, muốn phát binh đi trừ
dẹp, thì cần phải biết giặc ở nơi đâu.
Lỗi
lầm là ở tâm và mắt khiến ông bị lưu chuyển. Nay tôi hỏi ông, riêng TÂM và mắt nay ở chỗ nào?
(KINH LĂNG NGHIÊM)
Mỗi
câu tràng hạt (THỦ NHÃN) Phật
là tâm
Phật
rõ là tâm, uổng chạy tìm!
Bể Phật
dung hòa tâm với cảnh
Trời
tâm bình đẳng Phật cùng sanh
Bỏ tâm
theo Phật còn mơ mộng
Chấp
Phật là tâm chẳng trọn lành.
Tâm,
Phật nguyên lai đều giả huyễn
Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.
(NIỆM PHẬT THẬP
YẾU- HT. THÍCH THIỀN-TÂM)
Tóm lại, nếu Qúy-vị trì tụng Bảo-Kích Thủ Nhãn Ấn Pháp , không những ngăn ngừa và xua đuổi được giặc ngoại xâm bên ngoài, mà còn trừ được giặc ở bên trong là NGHIỆP CHƯỚNG, BÁO CHƯỚNG và PHIỀN NÃO CHƯỚNG, nên đối với “THỜI GIAN” thì việc gì trước làm trước…đối với “KHÔNG GIAN” là chỗ ở, cảnh vật, tiếp xúc với người cùng vật… đều “TỰ TẠI”, nói chung là tất cả đều được “TA BÀ HA”.
Ta Bà Ha
Trong chú Đại bi, câu Ta Bà Ha rất là quan trọng. Câu này được lặp lại đến mười bốn lần.
Ta Bà Ha. Hán dịch có sáu nghĩa. Bất kỳ chữ này xuất hiện ở bài chú nào cũng có đủ sáu nghĩa này.
Nghĩa thứ nhất là “Thành tựu”. Khi trì niệm câu chú này, tất cả sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu. Nếu quý vị chưa có được sự cảm ứng khi hành trì, là do vì tâm chưa đạt đến sự chí thành. Nếu quý vị có tâm chí thành và có niềm tin kiên cố, thì chắc chắn sẽ được thành tựu. Nhưng chỉ cần móng khởi một chút tâm niệm không tin vào chú này, thì không bao giờ được thành tựu.
Nghĩa thứ hai là “Cát tường”. Khi hành giả niệm câu chú này thì mọi sự không tốt lành, đều trở thành tốt lành như ý. Nhưng quý vị phải có lòng thành tín. Nếu quý vị có lòng thành tín hoặc nửa tin nửa ngờ khi trì chú này thì chư Bồ tát đều biết rõ. Vì thế nếu quý vị muốn mọi việc đều được đến chỗ thành tựu thì trước hết phải có niềm tin chắc thật. Ví như khi cha của quý vị có bệnh, muốn cha mình được khỏi bệnh thì quý vị phải hết sức thành tâm và chánh tin. Trì tụng chú này mới có cảm ứng.
Hoặc khi quý vị nghĩ rằng: “Từ lâu mình chưa được gặp người bạn thân. Nay rất muốn gặp anh ta”. Quý vị niệm chú này một cách chí thành, liền gặp bạn ngay. Hoặc quý vị nghĩ: “Ta chẳng có người bạn nào cả, muốn có người bạn tốt”. Quý vị trì chú này một cách thành tâm và liên tục, liền có được bạn lành, ngay cả gặp được thiện tri thức.
Nghĩa thứ ba của Ta bà ha là “Viên tịch”.
Khi các vị Tỳ kheo xả bỏ báo thân hoặc nhập Niết bàn thì được gọi là “Viên tịch”. Nhưng ở đây, chữ “Viên tịch” không có nghĩa là chết. Chẳng phải niệm câu chú Ta bà ha là để cầu sự Viên tịch. Thế thì công dụng của câu chú này là gì?
“Viên tịch” có nghĩa là “công vô bất viên”. Là công đức của hành giả hoàn toàn viên mãn; “đức vô bất tịch” là đức hạnh của hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm. Chỉ có chư Phật và Bồ tát mới biết được công hạnh rốt ráo tròn đầy ấy chứ hàng phàm phu không suy lường được.
Nghĩa thứ tư là “Tức tai”, nghĩa là mọi tai nạn đều được tiêu trừ.
Nghĩa thứ năm là “Tăng ích”, là sự tăng trưởng lợi lạc của hành giả. Khi niệm câu Ta bà ha thì công hạnh đều được tăng trưởng, hành giả sẽ đạt được chỗ lợi lạc an vui.
Nghĩa thứ sáu của câu này, tôi thiết nghĩ trong quý vị ít có ai biết được. Vì trước đây tôi chưa từng nói bao giờ.
Ta bà ha có nghĩa là “Vô trụ”. Nghĩa “vô trụ” này nằm trong ý nghĩa của câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cang.
“Vô trụ” nghĩa là không chấp trước, không vướng mắc hay bám chấp một thứ gì cả.
Tâm vô trụ là không có một niệm chấp trước vào việc gì cả. Không chấp trước nghĩa là tâm tùy thuận với mọi việc, thấy mọi việc đều là tốt đẹp. Đây chính là trường hợp: “Vô vi nhi vô bất vi” (không khởi niệm tác ý nhưng điều gì cũng được thành tựu). Vô trụ chính là vô vi theo nghĩa ở trên, và vô vi chính là vô trụ.
Khi quý vị vừa móng khởi lên một niệm tưởng, đừng nên vướng mắc vào một thứ gì cả, đó là nghĩa thứ sáu của Ta bà ha. Quý vị đừng nên trụ vào các niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu quý vị có tất cả các tâm niệm trên thì phải nhanh chóng hàng phục chúng, chuyển hóa chúng để tâm mình không còn trụ ở một niệm nào cả. Hàng phục, chuyển hóa được những tâm niệm chúng sinh ấy gọi là vô trú. Dùng cái gì để chinh phục chúng? Dùng Bảo kiếm ấn pháp này để hàng phục. Quý vị nói rằng tâm quý vị bị đầy dẫy niệm tham chế ngự. Tôi sẽ dùng Bảo kiếm này để cắt sạch. Nếu tâm quý vị có đầy ma oán, tôi cũng sẽ dùng Bảo kiếm này đuổi sạch. Nếu tâm quý vị bị ma si mê chiếm đoạt, tôi sẽ dùng kiếm trí tuệ này chặt đứt chúng từng mảnh.
Tôi sẽ chặt đứt tất cả các loài ma ấy bằng Bảo kiếm Kim cang vương này, tức là dùng kiếm Trí tuệ để hàng phục. Nếu quý vị muốn hàng phục thiên ma ngoại đạo thì trước hết quý vị phải chuyển hóa được mọi vọng tưởng của mình. Khi quý vị chuyển hóa được vọng tưởng trong tâm mình, thì thiên ma ngoại đạo cũng được hàng phục luôn, cho dù chúng có muốn đến để quấy phá, chúng cũng chẳng tìm được cách nào để hãm hại được cả.
Trên đây là sáu nghĩa của Ta bà ha. Bất luận câu chú nào dưới đây có chữ Ta bà ha đều mang đầy đủ sáu nghĩa trên.
Bảo-Kích
Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Sáu
Ma Ha Phạt Xà Da Đế [29]
Án-- thẳm muội dã, chỉ nảnh hạ rị,
hồng
phấn tra.
29. Ma ha phạt già da đế
Câu chú này có nghĩa là “Tối thắng, đại pháp đạo”.
Pháp là quảng đại, tối thắng và đạo cũng quảng đại, tối thắng. Pháp đạo là chân lý vượt lên trên tất cả mọi sự thù thắng nhất trên đời.
Đây là Bảo Kích thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp này có công năng hàng phục các loại thiên ma và ngoại đạo. Công năng của ấn pháp này rất lớn. Chẳng hạn ấn pháp này có thể bảo vệ quốc gia chống nạn ngoại xâm. Nếu quốc gia của quí vị sắp bị xâm lăng, và nếu quí vị hành trì ấn pháp này thì vô hình trung, quân giặc bắt buộc phải rút lui.
ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa
thượng Tuyên Hóa
Bản dịch
của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)
29) Ma Ha Phạt Xà Da Đế
Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì
tụng câu chú Ma Ha Phạt Xà Da Đế, thì NGÀI ĐẠI-LỰC
THIÊN-TƯỚNG sẽ “XUẤT HIỆN” Tay cầm BẢO-XỬ,
giúp cho Qúi vị “TỔNG-TRÌ” TẤT CẢ “ĐẠO
PHÁP RỘNG LỚN TỐI THẮNG.
ĐÂY LÀ ĐẤNG ĐÃ THÀNH TỰU “BẢ0-KÍCH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”.
NGÀI ĐẠI-LỰC THIÊN-TƯỚNG
( Thường TRÌ BẢO-KÍCH THỦ NHÃN ẤN PHÁP, để giúp cho Qúi vị “TỔNG-TRÌ” TẤT
CẢ “ĐẠO PHÁP RỘNG LỚN TỐI THẮNG”.
Và ngược lại nếu “QÚI VỊ” Thường TRÌ BẢO-KÍCH THỦ NHÃN ẤN PHÁP, thì Qúi vị là “HÓA THÂN” của NGÀI ĐẠI-LỰC THIÊN-TƯỚNG, nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)
Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “BẢO-KÍCH THỦ NHÃN ẤN PHÁP” thành tựu, thì NGÀI ĐẠI-LỰC THIÊN-TƯỚNG sẽ “XUẤT HIỆN” trong tay cầm BẢO-XỬ giúp cho Qúi vị ĐẠT ĐƯỢC “ĐỊNH-LỰC VÔ ÚY” trong khi tu THỦ NHÃN NẦY.
Cho nên, có khả năng VƯỢT QUA “3 TAI và 8 NẠN” KHỔ, CHO DÙ TRONG HOÀN CẢNH VUI BUỒN THUẬN NGHỊCH hoặc GẶP PHẢI CÁC LOÀI MA CHƯỚNG… CŨNG KHÔNG LÀM CHO QÚI VỊ SỢ HÃI, THỐI THẤT “TÂM ĐẠI-TỪ-BI”.
CHO NÊN NÓI RẰNG: “BẢO XỬ HÀNG MA HỘ HÀNH GIẢ”.
Kệ tụng :
Đại khổ đại lạc đại từ bi
Tu chư
thiện pháp lực vô úy
Bảo xử
hàng ma hộ hành giả
Tam
tai bát nạn nhất thời thôi
KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”
HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN
KỆ TỤNG
HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng
Comments
Post a Comment