20. Bảo-Cảnh Thủ Nhãn Ấn Pháp

 

Thất Na Thất Na [37] 

Án-- vỉ tát phổ ra, na ra các xoa,

                                   phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được trí huệ lớn, nên cầu nơi Tay cầm cái Kính-Báu.”



Thần-chú rằng: Thất Na Thất Na [37]

Chơn-ngôn rằng: Án-- vỉ  tát phổ ra, na ra các xoa,

                                            phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.




Kệ tụng:



Đại viên Cảnh Trí cùng pháp nguyên
Chiếu yêu kính lý tróc quái tiên
Diêm vương kính trung ác nghiệp hiện
Pháp bảo kính thủ chủng trí viên.


( Đại Viên Cảnh Trí thông suốt cùng tận cội nguồn của tất cả Pháp.

Trong “KÍNH CHIẾU YÊU”, Yêu-quái hiện nguyên hình, tùy ý ta bắt giữ hoặc tha đi.

Như KÍNH của DIÊM VƯƠNG, ác nghiệp trong một đời đều hiện, không chối cải được.
Tu Bảo-Cảnh Thủ Nhãn Ấn Pháp, thì thành tựu “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ.”)



“ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” là do chuyển thức “A LẠI DA” mà thành, có khả năng Phổ-chiếu khắp 10 phương cõi nước, nên thông đạt tất cả Pháp, hàng phục được Yêu-quái, tiêu trừ được Vô-minh vi tế (sở tri chướng), vậy nên thành tựu được “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”.


Bất động địa tiền tài xả tạng
Kim cang đạo hậu Dị thục không
Đại viên vô cấu đồng thời phát
Phổ chiếu thập phương trần sát trung.

( BÁT THỨC QUI CỦ TỤNG )



Khi đến địa vị thứ 8 của hàng Bồ-tát (Bất động địa), thì không gọi thức này là “TẠNG THỨC” (A LẠI DA THỨC), mà gọi là “DỊ THỤC THỨC”.

Khi đến địa vị Đẳng-giác (KIM CANG ĐẠO), THÌ KHÔNG GỌI LÀ “DỊ THỤC THỨC”, MÀ GỌI LÀ “VÔ CẤU THỨC”.



Đại viên vô cấu đồng thời phát
Phổ chiếu thập phương trần sát trung.


TỨC LÀ THÀNH TỰU “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”, LÀ THÀNH “PHẬT”.



Lại nữa, trong “BÁT NHÃN TÂM KINH” nói rằng :

Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức ( không có ngũ-uẩn); vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp ( không có 12 nhập); vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới (không có 18 giới); vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận (không có 12 nhân duyên); vô khổ, tập, diệt, đạo (không có 4 đế) ; vô trí diệc vô đắc (không có trí của Bồ-tát do tu Lục-độ, cũng không có đắc qủa Phật).

Lại nói, Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. (Ba đời  “Chư Phật” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”)

Còn nói, Bát-nhã là Đại-thần, là đại minh, là vô-thượng, là vô đẳng đẳng chú...như lại phải nhờ thần-chú  “Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.”,  để tiêu trừ vô-minh vi tế của “A LẠI DA THỨC” (sở tri chướng),  mà thành tựu  “ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” hay “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”, TỨC THÀNH PHẬT.


Kinh Pháp Hoa nói, muốn “NHẬP PHẬT TRI KIẾN”, phải nhờ thần lực gia trì, phẩm “ĐÀ RA NI” THỨ  26.

 

Kinh Lăng Nghiêm cũng nói: Thị cố nhữ kim tri kiến lập tri tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến, tư tức niết-bàn vô lậu chân tịnh. Vân hà thị trung cánh dung tha vật?

 

HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA Giảng: Vậy nay chính ông ngay nơi tri kiến, lập nên tướng tri kiến. Các ông lập nên một tri kiến khác trên cái tri kiến vốn đã là hư vọng. Đó tức là cội gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh niết-bàn. Ông đã nhận ra rằng tri kiến của mình vốn là không có tự thể, thế nên ông không khởi một niệm tưởng nào căn cứ trên tri kiến ấy.

 

Ngay trong tri kiến ấy mà không khởi  một niệm tưởng phân biệt nào chính là tương ưng với Đạo. Đó chính là niết-bàn vô lậu chân tịnh. Làm sao trong ấy còn có vật gì khác? Trong chỗ vắng bặt tri kiến, làm sao còn dung chứa một thứ gì khác? Nơi ấy chính là bản nguyên thanh tịnh pháp giới. Tại sao ông lại muốn đưa thêm một thứ gì nữa vào trong đó? Tại sao lại chồng thêm tri kiến lên trên tri kiến? Nguyên lý nầy cũng như trong đoạn kinh trước đã nói, “Bản giác vốn là diệu minh, nhưng hư vọng nên thành minh giác.”


Cho nên “Kinh Lăng Nghiêm” nói :  “ Tất cả Chư Phật trong 10 phương, đều do “TRÌ” CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM mà được thành Phật. Nghĩa là Bồ-tát Đẳng-giác muốn thành PHẬT, thì nhất định phải trì chú LĂNG NGHIÊM, để tiêu trừ vô-minh vi tế của “A LẠI DA THỨC”.


 

Tóm lại, nếu Qúy-vị trì “BẢO CẢNH THỦ NHÃN ẤN PHÁP” thì thành tựu:


      1) “ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” hay  “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”,  TỨC LÀ THÀNH PHẬT.

     2) Thông đạt cội nguồn của  tất cả “PHÁP”.

     3) Tiêu trừ tất cả ác nghiệp, tập khí khó trừ trong vô-lượng khiếp.

     4) Hàng phục được yêu quái, ngoại đạo, tà ma…




37. Thất Na Thất Na 

 

Câu chú này được dịch là “Đại trí huệ”, cũng dịch là “Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Bảo cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật.

 

Đại trí huệ là gì? Đó là khi chúng sanh không còn dính mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, thì mỗi niệm đều là biểu hiện của trí bát nhã, mỗi tâm niệm đều lưu xuất từ Đại Quang Minh. Nếu quý vị có trí huệ chân chính thì sẽ có được Quang Minh. Còn nếu chưa thể nhập trí huệ tự tánh, thì vẫn còn trong màn tối tăm của vô minh.

 

Quang minh là ánh sáng dương, còn bóng tối vô minh là âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi vì lực âm trồi lên quá mạnh. Do đâu người ta có trí huệ sáng suốt? Bởi vì ánh sáng dương lớn mạnh hơn.

 

Những người có trí huệ không có lối suy nghĩ như những kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rõ ràng chính tà. Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều ngay nơi tự thân của mình. Họ không đi vào con đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và hạ thủ công phu. Trong khi hành trì, trước tiên quý vị phải đạt được trí huệ. Rồi quý vị phải biết rõ ràng chính tà để rồi mới tiến vào con đường chánh lộ và tránh con đường tà vạy.

 

Nhưng quý vị không thể nào biết rõ việc làm nào hư ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quý vị kôhng thể nào biết được rõ ràng thế nào là phạm giới, nên cứ thế mà làm, ráng hết sức để làm cho được, cứ muốn nhìn cho được dù thực sự đó là những thứ chướng ngại. Những hành vi như thế là sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn toàn sự non yếu trí huệ.

 

Ồ! Không – Quý vị có thể phản đối – Tôi là người có trí huệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời thôi!

 

Chỉ sai lầm một lần thôi cũng có nghĩa là vô minh, không có trí huệ rồi. Người có đại trí huệ không hề có tư tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đã phát nguyện:

 

Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.

 

Nghĩa là:

“Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong muôn ức kiếp”.
Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà chứng ngộ được pháp thân”.

 

Tôn giả đã phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm kiếp nhưng trong vô số kiếp.

 

Nhưng tại sao trong tâm ta lại có quá nhiều vọng tưởng như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng tưởng khác kế tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng sau lại sinh khởi tiếp nối. Giống như sóng trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng đại dương là vật vô tình, nhưng thực sự nó chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị mà có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm của chúng sanh. 

 

Sóng biển không ngừng nổi lên rồi chìm xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng tưởng của chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục mãi. Vọng tưởng trước vừa biến mất, vọng tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng này tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần tương tục, nối theo nhau không dứt, như dòng thác không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng nào muốn rơi lại đằng sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng vọt lên phía trước. Vì sao mà quý vị lại mắc phải quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì không có trí huệ. Nếu quý vị có trí huệ, thì chẳng còn mảy may vọng tưởng và sóng cũng không còn xao động nữa. Như trong câu thơ:

 

Thanh phong đồ lai
Thủy ba bất hưng

 

Nghĩa là:

“Gió trong lành thổi đến,
Biển không còn sóng xao”.

 

Khi trong công phu mà quý vị đạt được định lực, cũng như sóng biển đã lặng yên. Khi có được định lực thì nước trí huệ hiển hiện, không còn một gợn sóng, chẳng còn một niệm vọng tưởng nào nữa. Lúc đó là thanh tịnh chân thực. Đó là lúc:

 

“Nhất trần bất nhiễm
Vạn lự giai không”

 

Thực vậy, khi một người không còn bị vướng dù chỉ một hạt bụi vô minh thì chẳng còn phải lo nghĩ một điều gì nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó chính là biểu hiện của đại trí huệ.

 

Người có trí huệ thường thành công trong bất kỳ mọi việc, còn người thiếu trí huệu thường bị thất bại trong bất kỳ việc gì mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên trí huệ là vô cùng quan trọng.

 

Ngu muội là gì? Vô minh chính là ngu muội. Ngu muội cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh khởi, con người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi một người vừa mới làm một việc sai lầm xong thì rõ:

 

- Tại sao anh lại làm việc đó?

Họ sẽ trả lời:

- Tôi không rõ nữa …

Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng suốt, thiếu trí huệ. Nhưng dù họ hành động mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không chịu từ bỏ vô minh. Họ lại khăng khăng:

 

- Tôi biết chứ. Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con người mê muội chỉ do vì không có trí huệ, không đạt được Đại viên cảnh trí, vì họ không chịu công phu hành trì Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, thì sẽ không còn ngu muội nữa; bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi: - 


Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật

 

Đây cũng như việc cầm một cây dao thật bén, chặt ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên. Đại trí huệ cũng như một con dao bén hay còn được ví như thanh gươm.

Quý vị có thể nói: “Gươm trí huệ rất nặng, không, không dễ gì cầm kiếm ấy được”! Đó là vì quý vị chưa từng cầm nó. Thực ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng chút sức lực nào cả. Nếu quý vị chưa từng cầm nó lên thì thấy nó quá nặng. Nếu quý vị đã cầm lên rồi, thì thấy nó nhẹ. Nếu quý vị không chịu cầm lên, thì nhẹ biến thành nặng. Nếu quý vị chịu cầm lên, thì nặng biến thành nhẹ. Sao vậy? Vì quý vị đã cầm lên rồi!

 

Nếu quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí huệ rất quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi không thể nhấc lên nổi”. Và quý vị không sờ tới gươm. Thế nên gươm trí huệ càng nặng thật. Nhưng một khi quý vị đã sờ vào kiếm, đã vung gươm lên rồi thì mọi sự hiểu biết đều bén nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn một chút rắc rối nào nữa cả. Thế nên tôi thường nói với quý vị rằng:

 

“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính là phát xuất từ đạo lý này. Nếu quý vị gặp nhiều việc rắc rối, là vì quý vị không có thanh gươm trí huệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí huệ ấy, thì sẽ chẳng còn chuyện gì rắc rối nữa cả. Màu nhiệm là ở điểm này.

 

Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo cũng như chánh báo đều không vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta.

 

Cái gì là thế giới ý báo? Núi sông, đất liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của chúng ta, chính là nơi mà con người chúng ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu được sự báo ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn vô minh nghĩa là có trí huệ. Điều này được ví như tấm gương:

 

Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.

 

Nghĩa là: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận điều gì.

 

Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.

Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí huệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”.

 

Khi đã tụng một lần rồi là không còn quên nữa, đã tụng được hai, ba lần, vài trăm lần rồi thì chẳng thể nào quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. Còn khi quý vị chỉ cần nhìn hoặc nghe lướt qua một lần rồi nhớ mãi không quên, chẳng cần phải dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí huệ của quý vị chiếu sáng như một đài gương trong.

 

Người có trí huệ đều biết rằng mọi hiện tượng đều lưu xuất từ tự tâm của mình. Nếu quý vị hiểu được điều này thì mình sẽ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Sao vậy? Vì mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm mình, nên những thứ vui buồn giận ghét đều là sở hữu của chính mình. Dù nó tốt hay xấu, cũng chẳng có vấn đề gì cả.

 

Mặc dù nói về cảnh giới ấy thì rất dễ, nhưng tiếp xúc với cảnh giới ấy không phải dễ dàng gì, cần phải có công phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những người không có công phu sẽ nói:

 

“Đối với tôi, chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”.

Bên ngoài thì như thế, nhưng vấn đề rắc rối đang phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong. Những người có trí huệ chân chính thì rất hiếm.

Quý vị cũng nên phân biệt rõ trí huệ thế gian và trí huệ xuất thến gian. Trí huệ thế gian còn gọi là Thế trí biện thông, là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi nào cần đến. Nơi nào không có đạo lý, họ có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp lý. Những kẻ mê muội nghe họ nói liền nghĩ rằng:

 

“Ồ! Họ đề cập đến những đạo lý rất đúng”. Thực ra, nếu quý vị có được trí huệ chân chính, quý vị sẽ không bị đắm chìm trong mớ lý luận ngu muội của họ. Người ta thường nói: “Trong dương có âm”.

 

Cũng vậy, trong trí huệ cũng có sự ngu muội – sự ngu muội một cách trí huệ. Mặt khác, trong âm có dương. Bên trong sự ngu muội ẩn chứa một trí huệ. Chẳng hạn như quý vị có thể thấy một người chẳng nói năng gì cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát, nhưng anh ta làm những việc chân chính. Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ mê muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lý. Có rất nhiều người như vậy.

 

Khi quan sát người khác, quý vị sẽ tự chiêm nghiệm ra chính tự thân mình có được trí huệ sáng suốt hay không. Nếu quý vị có trí huệ chân chính, thì quý vị không bị người klhác sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm. Còn nếu quý vị không có trí huệ, quý vị sẽ bị người khác xui khiến làm điều xằng bậy.

 

Trí huệ và ngu muội có một mối quan hệ trực tiếp. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô minh thì trí huệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng trí huệ. Trong vô minh có trí huệ và chính trong trí huệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại như thế? Vì trí huệ và vô minh là một. 

 

Nếu quý vị biết vận dụng, thì đó là trí huệ. Còn nếu không biết vận dụng thì đó là vô minh. Chẳng hạn như khi quý vị nâng thanh gươm trí huệ lên thì đó chính là trí huệ; còn khi quý vị buông thanh gươm ấy xuống thì đó là vô minh. Đó không phải là hai mà chỉ là một. Thế nên quý vị đừng bao giờ nói rằng mình đang đi tìm kiếm trí huệ và đang xua đuổi vô minh. Không ai làm được việc ấy bao giờ. Chủ yếu chỉ là sự “hồi đầu”.

 

Có thể lấy ví dụ của bàn tay để biểu tượng cho trí huệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu quý vị muốn cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay thì không thể nào làm được cả, nhưng nếu quý vị dùng chính bàn tay của mình thì mới lấy được đồ vật. Việc không lấy được đồ vật là biểu tượng cho vô minh và việc sử dụng bàn tay để lấy được vật là biểu tượng cho trí huệ. Đó là hai khía cạnh của chỉ một ý nghĩa chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quý vị.

 

Có người lại nói: “Nay tôi đã hiểu rồi. Vô minh và trí huệ chính là bàn tay của tôi”. Lại sai lầm nữa! Bàn tay chỉ là ví dụ. Đừng nên cho rằng trí huệ và vô minh chính là bàn tay. Cũng giống như ví dụ ngón tay và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm). Đức Phật lấy ví dụ dùng ngón tay để chỉ cho người thấy mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay chính là mặt trăng.

 

Thất na thất na là “đại trí huệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện” – là phát nguyện rộng lớn. Khi muốn hoàn thành một việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng. Như đức Phật A Di Đà trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa với hình tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền cũng đã phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô số lời nguyện cũng như các vị Tổ sư đã từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị nghe về việc phát đại nguyện. 

 

Còn có lập nguyện được hay không là do ở quý vị. Tôi đưa đề tài này ra giảng vì tôi đoán chắc là quý vị chưa được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi bắt buộc quý vị phải phát nguyện. Nay quý vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện càng lớn thì sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân và chưa ai thành Phật cả, chúng ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”.

 

Thật chứ? Làm sao quý vị có thể độ chúng sanh được. Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi cách để được ăn ngon, mặc đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng sanh trước hết là độ chúng sanh nơi cái miệng chuyên nói lời vọng ngôn của quý vị, độ cái bụng ham ăn, độ cái thân ham thích sung sướng của chính mình trước đã. Cho nên quý vị phải thẳng thắn và minh bạch trong khi phát nguyện. Hiện tại mình phát nguyện gì? Tương lai sẽ ra sao? 

 

Như ở trong quá khứ, chúng ta có thể quên lãng những gì đã từng ứng dụng tu hành. Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ thực hành điều gì? Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời phát nguyện. Nay ở trong nhân địa, lời phát nguyện càng lớn thì trong tương lai, kết quả sẽ càng cao. Nếu quý vị đặt tất cả nguyện lực của mình vào một lỗ chân lông, thì quý vị có thể phát một thệ nguyện lớn ngay từ trong lỗ chân lông.

 

Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng dẫn đường đi và nơi đến.

 

Tại sao chư Phật và chư Bồ tát đều phát nguyện khi tu đạo? Vì khi đã phát nguyện rồi, mình mới tự mình hành động tương ứng với nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ tát Địa Tạng khi tu hành ở nhân địa, Ngài đã phát lời nguyện vĩ đại:

 

“Địa ngục vị không
Thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận
Phương chứng Bồ đề”.

 

Nghĩa là:

“Chúng sanh độ hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu còn
Con chưa thành Phật”.

 

Nguyện lực này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên phát nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng ngày quý vị thích làm.





37. Thất Na Thất Na

NGÀI CA NA MA TƯỚNG THIÊN VƯƠNG 



Theo trong KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúy vị trì tụng câu chú Thất Na Thất Na, thì “NGÀI CA NA MA TƯỚNG THIÊN VƯƠNG”  sẽ  “XUẤT HIỆN”, giúp cho Qúy vị mau thành tựu BẢO CẢNH THỦ NHÃN ẤN PHÁP.

 

Đây là đấng có ĐẠI TRÍ HUỆ , ĐẠI NGUYỆN LỰC RẤT RỘNG SÂU. Có thể làm cho Qúy vị tăng trưởng TRÍ HUỆ, tăng trưởng NGUYỆN LỰC KIÊN CỐ.

 

Nếu “QÚY VỊ” Thường TRÌ BẢO CẢNH THỦ NHÃN ẤN PHÁP, thì Qúy vị là “HÓA THÂN” của NGÀI CA NA MA TƯỚNG THIÊN VƯƠNGnghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.



Kệ tụng :

 

Thị thiện thị ác nhiếp chúng sanh

Hốt thuận hốt nghịch chiết tánh linh

Phản bổn hoàn nguyên tu chư kỷ

MA HA BÁT NHÃ nhật dạ minh.



Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG BẢO CẢNH THỦ NHÃN ẤN PHÁP, thì Qúy vị sẽ PHẢN BỔN HOÀN NGUYÊN, TỨC LÀ TRỞ VỀ VỚI “BỔN TÁNH” CỦA CHÍNH MÌNH, NÊN ĐẠI TRÍ HUỆ TỰ NHIÊN HIỆN TIỀN (MA HA BÁT NHÃ), CÓ KHẢ NĂNG SOI CHIẾU TẤT CẢ CÕI NƯỚC TRONG 10 PHƯƠNG, “NGÀY CŨNG NHƯ ĐÊM”, HOẶC THỊ HIỆN :

 

1)   THUẬN DUYÊN

2)   NGHỊCH DUYÊN

3)   NGƯỜI THIỆN

4)   NGƯỜI ÁC

 

LÀM CHO TẤC CẢ CHÚNG SANH TRONG PHÁP GIỚI CÙNG MỘT LÚC ĐỒNG CHỨNG ĐẶNG QUẢ “VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC."



KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI XUẤT TƯỢNG

Hòa Thượng THIỀN TÂM Dịch ra VIỆT VĂN

 

KỆ TỤNG

Hòa Thượng TUYÊN HÓA Kệ tụng

 

 

ĐẠI BI CHÚ

 

Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa

Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU

CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)



 

20. The Jeweled Mirror Hand and Eye

 


The Sutra says: “For great wisdom, use the Jeweled Mirror Hand.”




The Mantra: Shr nwo shr nwo

The True Words: Nan. Wei sa pu la. Nwo la ge cha.
                                    Wa dz la. Man cha la. Hung pan ja.



The verse:



The great perfect mirror-wisdom plumbs the Dharma-source;

Revealing within it strange creatures, and snaring uncanny immortals.

Within King Yama’s mirror evil karma is revealed.

A Dharma jewel, the Mirror Hand, perfect the wisdom of all modes.

 


37. SHINA SHINA 

   

This sentence means “great wisdom.” It also means “vast vows.” This is the Jeweled Mirror Hand and Eye. The Jeweled Mirror is an analogy for the Buddha’s Great Perfect Mirror Wisdom.

What is great wisdom? It is the absence of the false thinking which living beings engage in. With great wisdom, all thinking is an expression of genuine Prajna wisdom, wisdom of great bright light. If you have genuine wisdom, you will have bright light, but if you do not, you are stupid and dark.

Bright light is POSITIVE (YANG) light, whereas darkness is NEGATIVE (YIN) energy. Why is one stupid? Because one’s NEGATIVE energy level is too high. Why is one wise? Because one’s POSITIVE light is greater.

Those with great wisdom do not think like common, ordinary people. They can clearly distinguish right from wrong. They don’t need to ask anyone else; they know it on their own. They do not take the wrong road; they advance down the right road and cultivate. In cultivation, you must first have great wisdom. Then you will clearly know right from wrong so that you can go down the right road and retreat from the wrong road.

But you can’t clearly know that an action is wrong and yet insist on doing it. You can’t clearly know that an action is a violation of the precepts, but go ahead and do it anyway, just to try it out, just to see if it really is an offense. Such behavior is the height of stupidity and shows a complete lack of wisdom.

“oh no,” you may object. “I have wisdom. I just did it wrong that one time.”

Doing it wrong that once just means that you are stupid and have no wisdom. People with great wisdom have no perverted thoughts. So Ananda the Venerable said,



“Destroy my million aeons of perverted thinking.

So that I needn’t pass through uncountable aeons to attain the DharmaBody.”



A million aeons, not just one, two, three, four, five or a hundred aeons, but an unreckonable number of aeons’ worth of perverted thinking, he wishes to destroy.

But why are our hearts so full of false thinking? When one false thought passes away, another takes its place, and when that one passes away yet another comes. It’s just like the waves on the ocean.

You may think that ocean is an inanimate object, but actually it is not outside of our own hearts. It is contained within the hearts of living beings. The waves on the sea never stop rising and falling, and in just the same way, our false thinking never stops. It continues, one false thought after another, one after another, around and around and on and on, in a ceaseless, never-ending stream. And none of them wants to fall behind; they all race to the front. Why are you riddled with such false thinking?

It’s  just because you have no wisdom. If you were wise, there would be no  waves on that water.



The winds may rise, but they blow in vain,

For there are no waves on the water.

 

when you attain samadhi power in  cultivation, it is  like the ocean without any waves. When you have concentration,  the water of wisdom manifests without a single wave, without a single false thought.

 

That is a time of true purity and clarity. Truly, one is not defiled by a speck of dust and the myriad lands all are empty. That is the manifestation of great wisdom.

People with great wisdom are successful in all they do, people without it fail in all their undertakings. Therefore, wisdom is of the utmost importance.

 

What is stupidity? Ignorance is stupidity; stupidity is just ignorance. When ignorance arises, people become unclear. You may ask people who have done something wrong: “why did you do that?” and they may reply, “ I don’t know…”  Just that is stupidity, the absence of wisdom and understanding. But, although they act wrongly out ignorance, they won’t admit their ignorance. “I know!” they insist. “I know it was wrong it’s extremely strange. Stupid people simply don’t have the Perfect Mirror Wisdom and they haven’t cultivated the Jeweled Mirror Hand and Eye. If they had, they wouldn’t be stupid, no matter what happened.

 

If the demon comes, slay the demon;

If the (phony) Buddha comes, slay the Buddha.

 

(Phật “THẬT”, thì không từ đâu đến cũng không đi về đâu.-KINH KIM CANG)



This is just like holding a knife so sharp that it cuts right through anything it comes in contact with. Great wisdom is like a knife; it is also like a sword.

 

 “The wisdom sword is very heavy,” you may say. “It’s not easy to pick it up.”

 

That’s just because you haven’t picked it up. If you had, you’d have found out that it doesn’t take the least bit of effort. If you don’t pick it up, it’s heavy. If you pick it up, it’s light. If you don’t pick it up, what is light becomes heavy. If you do pick it up, what is heavy becomes light. Why? Because you picked it up!

 

If you say, “I know that the wisdom sword is  important, but it’s too heavy. I can’t lift it,” and so you don’t lift it, then it is indeed very heavy. But if you just reach out, grasp it, and pick it up, then all states are understood as they hit the blade, without the slightest problem. So I often tell you that “Everything ’s okay.” It is just that principle. If everything is not okay with you, it’s because you don’t have a wisdom sword. If you had one, there would be no problems whatever. What problems could there be? None at all. The wonderful is right at this point.

 

The mountains, rivers, land, buildings, the Dependent-retribution World as well as the Proper-retribution World--  all do not go beyond the present thought within our hearts.

 

What is the Dependent-retribution World? The mountains, rivers, the great earth, and all the buildings  are called the Dependent-retribution World. Proper-retribution World is our bodies, which are undergoing retribution proper. If you can understand retribution while undergoing it, you will be without ignorance. The absence of ignorance is wisdom. This can be compared to a mirror:

 

When an object comes, it reflects it.

When it goes, the mirror is clear.

 

It doesn’t hold on. People with wisdom will take care of matters and then let them go; their hearts don’t hold on to them. Although they don’t keep them, there are always manifest and although they are constantly manifest they are not kept. We common people who have no wisdom must make a special effort to remember something, or perhaps recite it a few times: “YHY, YHY, SHINA, SHINA …”  We recite it once and forget it, recite it twice, three times, several hundred times, and we still can’t remember it. This is forcing it. It is not forced when you can see it once and not forget it, when it passes by your eyes once and is never forgotten, because your wisdom is like a mirror.

 

36. YHY YHY 

37. SHINA SHINA 

 

Those of you with wisdom should know that everything is contained within your heart. If you know this, you won’t be greedy, hateful, stupid, arrogant, or full of doubt. Why not? Because everything is manifest from the heart; these are all things which your heart originally possesses. Whether good or bad, it’s no problem. Nothing presents any problem.

 


Although it is easy to talk about such a state, reaching it takes a bit of skill. It takes skill to reach that level. Those without skill who say, “Nothing is any problem for me,” may outwardly appear to have no problems, but problems arise internally and they fight with themselves. Those who  have genuine wisdom are very few.

 

You should  also know that there are people with worldly wisdom and people with transcendental wisdom. Those  who have great worldly intelligence can fashion a principle when the need arises. Where there is no principle, they can make one up, one which sounds very reasonable. When stupid people hear it, they think, “He’s not bad. What he says makes a great deal of sense.” Actually, if you had genuine wisdom, you would not be drawn into stupidity by him. The stupid doctrines which he speaks would not make you stupid as well. It is said, “Within the positive  there is negative.” Within wisdom there is stupidity-- stupid wisdom.

 

One the other hand, “within the negative there is positive.” Inside of stupidity there is wisdom. For example, you  may see someone who doesn’t speak much and seems very  ordinary, but he does things properly. He may appear to be stupid and clumsy, but he always acts in accord with principle. There are many such people. In observing other people, you will find out whether or not you, yourself, have wisdom. If you have genuine wisdom, you won’t be led by others into stupidity; if you don’t have it, you will. So it is with wisdom and so it is with everything else.

 

Wisdom and stupidity have a direct relationship. The absence of stupidity is wisdom, and the absence of wisdom is stupidity. Stupidity itself is wisdom and wisdom itself is stupidity. How can this be? Wisdom and stupidity are one. If you can use it, it is wisdom; if you can’t it’s stupidity. For example, if you pick up the wisdom sword, that’s wisdom; if you put it down, it’s stupidity. There aren’t two things; there is only one. So don’t say that you’re going to seek wisdom and chase out stupidity. It doesn’t  work that way. It’s just a matter of “turning it over.”

 

Let’s say that the palm of the hand represents wisdom and the back of the hand represents stupidity. If you try to pick something up with the back of your hand, you won’t be able to do it, but if you use the palm of your hand, you will. Not being able to pick things up is stupidity and being able to  pick them up is wisdom. It’s one thing with two sides and it’s up to you which side you use. Do you understand?

 

Someone says, “I understand the BuddhaDharma now! Wisdom and stupidity are my hand!” Wrong again! The hand is an analogy. Don’t think that wisdom and stupidity are themselves the hand. It’s like the analogy of the finger and the moon. When someone points to the moon, don’t mistake the finger for the moon.

 

SHINA SHINA means “great wisdom” and “vast vows.” Vows  are made in order to accomplish something.  For example, before Amitabha Buddha had realized Buddhahood, when he was cultivating on the causal ground as a Bhikshu, he made Forty-eight Great Vows. The Bodhisattva Samantabhadra also made Ten Kingly Vows. The Bodhisattva Who Regards the World’s Sounds also made many vows, and so did the Patriarchs. I’m telling you about vows, but whether you  make vows or not is up to you. I’m bringing the subject up because I know that you don’t understand, but it’s not up to me to force you to make vows. Now that we are studying the BuddhaDharma, everyone should make his own vows, the gigger the better. The greater your vow power is the greater your accomplishment will be. We are now studying Buddhism in the causal ground and have not yet realized Buddhahood; we should make our vows in the causal ground. Each of you should write them out in detail. Don’t be sloppy or vague about it or just blurt out, “I vow to save living beings!”

 

Really? How are you going to save them? All you do all day is think about wearing good clothes, eating well, and living in a nice place, saving the living beings in your mouth, in your stomach, and on your body. That’s not allowed. You must be specific about the vows that you make and about what they involve now and in the future. As for the past, we’ll forget about whether you applied effort and cultivated. What are you going to do in the future? Each and every one of you should make vows. The greater the vows you make now, in the causal ground, the greater your position will be in the result. If you put all your vow power in a hair pore, you can make a great vow from within a hair pore!

 

Vows are solemn promises and all who study Buddhism should make them. They are important because without them you have no guidelines. It’s like walking down the road without knowing where you are headed or whether you are walking in the right direction. If you make vows, you have a guide like a traveler who has a guide to show him around.

 

Why did all the Buddhas and Bodhisattvas make vows while cultivating the Way? It’s because once one has made vows, one can conduct oneself according to them. For example, white in the causal ground, Earth Store Bodhisattva made a number of vows. He said.

 

If the hells are not empty,

            I vow not to become a Buddha;

When all living beings are saved,

            only then will I certify to Bodhi.

 

The power of his vows is extremely great! We should also make vows. Each of you should make vows in accordance with what you would like to do.



37. SHINA SHINA 

 

Appearing to be good, appearing to be evil, he gathers in all beings.

Now complying, now defying, he subdues our natures.

Returning to the source involves curing our own faults.

That way, our maha prajna wisdom gets brighter by day and by night.




with the commentary of

THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA

 

Translated into English by

BHIKSHUNI HENG YIN

 

THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY

SAN FRANCISCO

1976




MAHAKARUNA  DHARANI


 

1. NAMO RATNATRAYÀYA

2. NAMO ARYA     

3. AVALOKITÉSHAVARAYA

4. BODHISATTVAYA

5. MAHASATTVAYA

6. MAHA KARUNIKAYA

7. AUM!

8. SAVALAVATI

9. SUDHANATASYA

10. NAMASKRITTVA NIMAN ARYA

11. AVALOKITÉSHAVARA LANTABHA

12. NAMO NILAKANTHA

13. SRI MAHAPATASHAMI

14. SARVAD VATASHUBHAM

15. ASHIYUM

16. SARVASATTVA NAMO PASATTVA NAMO BHAGA

17. MABHATETU

18. TADYATHA

19. AUM! AVALOKA

20. LOKATE

21. KALATI

22. ISHIRI

23. MAHABODHISATTVA

24. SABHO SABHO

25. MARA MARA

26. MASHI MASHI RIDHAYU

27. GURU GURU GHAMAIN

28. DHURU DHURU BHASHIYATI

29. MAHA BHASHIYATI

30. DHARA DHARA

31. DHIRINI

32. SHVARAYA

33. JÁLA JÁLA

34. MÀMÀ BHÀMARA

35. MUDHILI 

36. EHY EHY 

37. SHINA SHINA

38. ALASHINBALASHÁRI

39. BASHÁ BHASNIN

40. BHARASHÁYA

41. HULU HULU PRA

42. HULU HULU SHRI

43. SARA SARA

44. SIRI SIRI 

45. SURU SURU 

46. BUDDHÀYA BUDDHÀYA

47. BODHÀYA BODHÀYA

48. MAITRIYÉ 

49. NILAKANSTA

50. TRISA RANA

51. BHAYA MANE

52. SVAHA

53. SITAYA

54. SVAHA 

55. MAHA SITAYA 

56. SVAHA

57. SITAYAYE

58. SHVARAYA

59. SVAHA

60. NILAKANTHI

61. SVAHA 

62. PRANILA

63. SVAHA 

64. SHRISINHAMUKHAYA

65. SVAHA

66. SARVA MAHA ASTAYA

67. SVAHA 

68. CHAKRA ASTAYA

69. SVAHA 

70. PADMAKÉSHAYA

71. SVAHA

72. NILAKANTÉ PANTALAYA

73. SVAHA 

74. MOPHOLISHAN KARAYA

75. SVAHA

76. NAMO RATNATRAYAYA

77. NAMO ARYA

78. AVALOKITÉ

79. SHAVARAYA

80. SVAHA 

81. AUM! SIDDHYANTU

82. MANTRA

83. PATAYA

84. SVAHA 





ÐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI

 

 

1. NAM-MÔ HẮC RA ÐÁT NA ÐA RA DẠ DA

2. NAM-MÔ A RỊ DA

3. BÀ LÔ YẾT ÐẾ THƯỚC BÁC RA DA

4. BỒ-ÐỀ TÁT ÐỎA BÀ DA

5. MA HA TÁT ÐỎA BÀ DA

6. MA HA CA LÔ NI CA DA

7. ÁN

8. TÁT BÀN RA PHẠT DUỆ

9. SỐ ÐÁT NA ÐÁT TỎA

10. NAM-MÔ TẤT KIẾT LẬT ÐỎA Y MÔNG A RỊ DA

11. BÀ LÔ KIẾT ÐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ÐÀ BÀ

12. NAM-MÔ NA RA CẨN TRÌ

13. HÊ RỊ MA HA BÀN ÐA SA MẾ

14. TÁT BÀ A THA ÐẬU THÂU BẰNG

15. A THỆ DỰNG

16. TÁT BÀ TÁT ÐA, NA MA BÀ TÁT ÐA, NA MA BÀ GIÀ

17. MA PHẠT ÐẠT ÐẬU

18. ÐÁT ÐIỆT THA

19. ÁN! A BÀ LÔ HÊ

20. LÔ CA ÐẾ

21. CA RA ÐẾ

22. DI HÊ RỊ

23. MA HA BỒ-ÐỀ TÁT ÐỎA

24. TÁT BÀ TÁT BÀ

25. MA RA MA RA

26. MA HÊ MA HÊ RỊ ÐÀ DỰNG

27. CU-LÔ CU-LÔ KIẾT MÔNG

28. ÐỘ LÔ ÐỘ LÔ PHẠT XÀ DA ÐẾ

29. MA HA PHẠT XÀ DA ÐẾ

30. ÐÀ RA ÐÀ RA

31. ÐỊA RỊ NI

32. THẤT PHẬT RA DA

33. DÁ RA DÁ RA

34. MẠ MẠ PHẠT MA RA

35. MỤC ÐẾ LỆ

36. Y HÊ DI HÊ

37. THẤT NA THẤT NA

38. A RA SÂM PHẬT RA XÁ-LỢI

39. PHẠT SA PHẠT SÂM

40. PHẬT RA XÁ DA

41. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA

42. HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ LỴ

43. TA RA TA RA

44. TẤT RỊ TẤT RỊ

45. TÔ RÔ TÔ RÔ

46. BỒ-ÐỀ DẠ BỒ-ÐỀ DẠ

47. BỒ-ÐÀ DẠ BỒ-ÐÀ DẠ

48. DI ÐẾ RỊ DẠ

49. NA RA CẨN TRÌ

50. ÐỊA RỊ SẮC NI NA

51. BA DẠ MA NA

52. TA BÀ HA

53. TẤT ÐÀ DẠ

54. TA BÀ HA

55. MA HA TẤT ÐÀ DẠ

56. TA BÀ HA

57. TẤT ÐÀ DU NGHỆ

58. THẤT BÀN RA DẠ

59. TA BÀ HA

60. NA RA CẨN TRÌ

61. TA BÀ HA

62. MA RA NA RA

63. TA BÀ HA

64. TẤT RA TĂNG A MỤC KHÊ DA

65. TA BA HA

66. TA BÀ MA HA A TẤT ÐÀ DẠ

67. TA BÀ HA

68. GIẢ KIẾT RA A TẤT ÐÀ DẠ

69. TA BÀ HA

70. BÀ ÐÀ MA YẾT TẤT ÐÀ DẠ

71. TA BÀ HA

72. NA RA CẨN TRÌ BÀN ÐÀ RA DẠ

73. TA BÀ HA

74. MA BÀ LỴ THẮNG YẾT RA DẠ

75. TA BÀ HA

76. NAM-MÔ HẮT RA ÐÁT NA ÐA RA DẠ DA

77. NAM-MÔ A RỊ DA

78. BÀ LÔ YẾT ÐẾ

79. THƯỚC BÀNG RA DẠ

80. TA BÀ HA

81. ÁN! TẤT ÐIỆN ÐÔ

82. MẠNG ÐA RA

83. BẠT ÐÀ DẠ

84. TA BÀ HA


Comments

Popular posts from this blog