Sự trì niệm thủ nhãn nầy, cũng giống như người NIỆM
PHẬT vậy, không có gì khác biệt. Trong “NIỆM PHẬT THẬP YẾU” có nói về SỰ NHỨT-TÂM, LÝ-NHỨT-TÂM như sau:-
* Sự-nhứt-tâm là thế nào? - Khi hành-giả chuyên
tâm chú-ý trên sáu chữ hồng-danh, lâu ngày tất cả tạp niệm đều dứt bặt, lúc nằm ngồi đi đứng duy có một câu Phật-hiệu
hiện tiền, gọi là cảnh-giới Sự-nhứt-tâm. Đây là định cảnh của người tu
Tịnh-độ, cũng
ngang hàng với sự nhập định của bậc tu Thiền.
* Lý-nhứt-tâm là thế nào? - Trên Sự-nhứt-tâm nếu
tiến thêm một bước, dụng công đến chỗ chí cực, ngày kia tâm địa rỗng suốt, thoát hẳn căn trần ngộ vào thật-tướng. Khi ấy
hiện tại tức là Tây-Phương mà chẳng ngại gì riêng có cõi Cực-Lạc, tánh
mình chính là Di-Đà cũng chẳng ngại gì riêng có đức A-Di-Đà. Đây
là cảnh-giới Lý-nhứt-tâm. Địa-vị nầy là cảnh "định huệ nhứt như" của
người niệm Phật, ngang hàng với trình-độ khai-ngộ bên Thiền Tông.
* Với thuyết Sự, Lý-nhứt-tâm, Ngẫu-Ích đại-sư đã giản-biệt tường-tận. Ngài bảo: "Không luận sự-trì hay lý-trì; niệm đến hàng phục phiền-não, kiến-hoặc
tư-hoặc không khởi hiện, là cảnh giới Sự-nhứt-tâm. Không luận sự-trì hay lý-trì,
niệm đến tâm khai, thấy rõ bản tánh Phật,
là cảnh-giới Lý-nhứt-tâm. Sự-nhứt-tâm không bị kiến, tư hoặc làm loạn.
Lý-nhứt-tâm không bị nhị-biên làm loạn" (Nhị biên: có, không - đoạn, thường v.v...)
Như thế chẳng nói chi Lý-nhứt-tâm, với Sự-nhứt-tâm người đời nay cũng chẳng dễ gì đi đến. Tuy nhiên,
với công-đức của câu niệm Phật cộng thêm sự chí thiết hành-trì, trong mỗi niệm
sẽ diệt được một phần vô minh thêm một phần phước-huệ, lần lần tất sẽ đi đến
cảnh giới tốt. Và hành-trì lâu ngày như thế, lo gì không tiến đến chỗ mỗi niệm
khai ngộ, được hảo-cảnh gọi là "Nhứt
phiên đề khởi nhứt phiên tân" (Một
phen đề khởi niệm, một phen lộ bày cảnh mới).
Cho nên, dù là căn tánh thời mạt, nếu thiết thật dụng công, trình-độ Sự, Lý-nhứt-tâm đối với chúng ta
chẳng phải tuyệt phần hy vọng?
Tuy nhiên, nếu chưa đạt được trình độ SỰ, LÝ-NHỨT-TÂM,
thì người tu TỊNH-ĐỘ HẰNG NGÀY PHẢI TÌM CÁCH PHÁ TRỪ: 3 ĐIỀU NGHI, 4 CỬA ẢI, để không bị chướng ngại cho sự vãng-sanh của
QÚY-VỊ.
* Từ-Chiếu đại-sư
nói: "Người tu Tịnh-độ khi lâm chung
thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng-sanh, phải
dự bị suy nghĩ trước để phá trừ.
Ba điều nghi là:
1.- Nghi mình túc-nghiệp
sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được
vãng-sanh.
2.- Nghi mình bản nguyện
chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được
vãng-sanh.
3- Nghi mình niệm Phật,
Phật không đến rước, e không được vãng-sanh.
Bốn cửa ải là:
1.- Hoặc nhân bị bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật không linh.
2.- Hoặc nhân tham sống mà giết
vật mạng cúng tế.
3.- Hoặc nhân uống thuốc mà dùng
rượu cùng chất máu tanh hôi.
4.- Hoặc nhân ái luyến mà
tự ràng buộc với gia đình.
Nếu phá trừ được “TAM NGHI, TỨ
QUAN”, thì chắc chắn chúng ta sẽ được “ĐỚI
NGHIỆP VÃNG-SANH”, còn được ĐỊA VỊ CAO THẤP, LÀ DO CÔNG PHU TRÌ CHÚ hoặc
NIỆM PHẬT có sâu cạn khác nhau.
( Xin xem phần giải thích của HT. THÍCH THIỀN TÂM về “TAM NGHI, TỨ QUAN” ở phần sau của THỦ NHÃN
nầy)
3 ĐỊA VỊ BẤT THỐI CHUYỂN:
8.- |
HÁN |
VIỆT |
|
Nhứt cú Di Ðà
Chứng tam bất thối
Chỉ thử nhất sanh
Tiện bổ Phật vị
|
Một
câu A Di Ðà
Chứng ba ngôi Bất Thối
Chỉ trong một đời này
Ðược bổ lên Phật vị
|
LƯỢC GIẢI:
Ba
ngôi Bất Thối Chuyển là: Vị Bất Thối,
Hạnh Bất Thối, và Niệm Bất Thối. Cứ theo Thiên Thai Giáo, chứng được đệ nhất bất thối tâm trụ, mới lên ngôi Vị Bất Thối.
Chứng Thập Hồi Hướng, lên ngôi Hạnh Bất Thối.
Và chứng Sơ Ðịa mới vào ngôi Niệm Bất Thối.
Nhưng
ước theo đường lối phổ thông của Ðại Thừa giáo thì phá được kiến tư hoặc mới lên
ngôi Vị Bất Thối.
Phục đoạn trần sa hoặc, lên ngôi Hạnh Bất Thối.
Và
tiến phá vô minh hoặc, mới vào ngôi Niệm Bất Thối.
Như
thế chứng được ba ngôi bất thối thật không phải dễ! Theo các giáo môn khác, tất
phải tu tập trải a tăng kỳ số kiếp mới
chứng nhập được.
Với pháp môn Tịnh Ðộ, khi được
vãng sanh kể như vĩnh viễn không còn bị thối chuyển nữa. Ðiều này, theo kinh giáo, gọi
là Xứ Bất Thối.
Từ Xứ Bất Thối, địa vị tam bất
thối là cầm chắc trong tay, lần lượt sẽ tiến lên Phật qủa. Cho nên kinh Di Ðà
nói: “Là bậc A Bệ Bạt Trí (Bất thối chuyển)". Chư thiện nhơn ở Cực
Lạc sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, chỉ trong một kiếp sanh về nơi đó
đã dư thời gian chứng lên ngôi Nhứt Sanh Bổ Xứ, được bổ vào Phật vị rồi.
Tóm lại,
nếu Qúy-vị NHỨT-TÂM trì tụng thủ
nhãn nầy, thì cũng giống như người trì danh hiệu “NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT” vậy, phải
dự bị suy nghĩ trước để phá trừ 3 ĐIỀU NGHI và 4 CỬA ẢI, thì khi lâm chung được chư Phật 10 phương trau tay tiếp
dẫn vãng-sanh từ cõi TỊNH ĐỘ nầy SANG cõi TỊNH ĐỘ khác, làm cho QÚY-VỊ mau chứng
được 3 bậc bất thối chuyển.
Cho nên, ta
thấy KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA, LÀ DIỆU PHÁP THÙ THẮNG, LÀ KIM CHỈ NAM CHO TẤT CẢ CHÚNG-SANH TU HÀNH THÀNH PHẬT.
Kệ tụng:
Niệm
tư tại tư vọng quy chơn
Thập
phương chư Phật thọ thủ thân
Tốc chứng
tam bối phẩm tư địa
Ma ha diệu pháp thắng linh văn.
Sổ-Châu Thủ Nhãn
Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Chín
Phật Ra Xá-Lợi [38]
đát ra dạ dã.
Án-- a na
bà đế vĩ nhá duệ,
tất địa
tất đà lật thế,
tát-phạ
hạ.
Phật
ra xá lợi dịch là “giác thân tử”. Đây là Sổ châu thủ nhãn ấn pháp hoặc là Niệm châu ấn pháp, là pháp môn của chư vị Bồ
tát tu tập. Khi Bồ tát tu tập thủ nhãn này thành tựu, thì chư Phật trong mười
phương nhiếp thọ và tiếp dẫn hành giả đến các thế giới Phật khắp trong mười
phương.
ĐẠI
BI CHÚ
Tác
giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản
dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ
GIẢI
(Giảng giải từng câu)
38) Phật Ra Xá-Lợi
Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì
tụng câu chú Phật Ra Xá-Lợi, thì Bồ-tát
QUÁN-THẾ-ÂM sẽ “XUẤT HIỆN” với “THÂN TƯỚNG” 3 THỦ NHÃN, THỦ NHÃN CẦM CUNG-TÊN,
THỦ NHÃN CẦM BÀNG-BÀI và THỦ NHÃN CẦM NỎ-THẦN,
ĐỂ GIÚP CHO “QÚY VỊ” MAU THÀNH TỰU “DIỆU PHÁP” RỘNG SÂU KHÔNG CÙNG TẬN.
Đây là đấng dùng “THÂN GIÁO” nghĩa là ngài chỉ DÙNG
HÀNH ĐỘNG LÀM NGƯỜI MÔ PHẠM, để
cho chúng sanh thấy mà làm theo, chứ ngài không DÙNG LỜI dạy gì cả.
Cho nên, gọi ngài là đấng “THÂN-GIÁC NGỘ”, thường dùng SỔ-CHÂU THỦ NHÃN ẤN PHÁP, để tiếp dẫn
chúng sanh trong 10 phương vãng sanh về TỊNH-ĐỘ.
NGÀI
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT
( Thường TRÌ “SỔ-CHÂU THỦ NHÃN ẤN PHÁP”,
để tiếp dẫn chúng sanh trong 10 phương vãng sanh về TỊNH-ĐỘ.
Và ngược lại nếu “QÚI
VỊ” Thường TRÌ “SỔ-CHÂU THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì
Qúi vị là “HÓA THÂN” của Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM, nghĩa là cũng đạt được như
Ngài vậy.)
Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi “PHÁT TÂM”
TRÌ TỤNG 42 THỦ-NHÃN ẤN PHÁP, thì Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM sẽ XUẤT HIỆN với “THÂN TƯỚNG” 3 THỦ NHÃN, THỦ NHÃN CẦM CUNG-TÊN,
THỦ NHÃN CẦM BÀNG-BÀI và THỦ NHÃN CẦM NỎ-THẦN,
ĐỂ GIÚP CHO “QÚY VỊ” MAU THÀNH TỰU “DIỆU PHÁP” RỘNG SÂU KHÔNG CÙNG TẬN.
CHO NÊN, TẤT CẢ CHÚNG SANH TRONG PHÁP GIỚI
TỪ “CÕI-TRỜI” CHO ĐẾN “ĐỊA-NGỤC”… ĐỀU ĐƯỢC ĐỘ THOÁT RA KHỎI “TRẦM-LUÂN”
TRONG TAM GIỚI.
TUY CÓ “SỨC MẠNH UY THẦN”
CỦA VI DIỆU PHÁP, NHƯ NGÀI CHỈ DÙNG “ĐỨC”
NHU HÒA NHẪN NHỊN, ĐỂ CẢM HÓA NHỮNG CHÚNG SANH CAN CƯỜNG, ĐẶC BIỆT LÀ NGÀI DÙNG
“THÂN-GIÁO” LÀM GƯƠNG CHO CHÚNG SANH
LÀM THEO, ĐỂ RA KHỎI VÒNG SANH TỬ “TRẦM-LUÂN”
RẤT LÀ THẦN TỐC. (Bài nỗ cung tiễn uy thần tốc)
Kệ tụng
:
Tứ thập
nhị thủ diệu vô cùng
Thông
thiên đạt địa cảm mê mông
Bài nỗ cung tiễn uy thần tốc
Cường
giả điều phục nhược giả hưng
KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”
HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN
KỆ TỤNG
HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng
Tam
Nghi Tứ Quan
Từ-Chiếu đại-sư nêu ra thuyết “Tam
Nghi Tứ Quan” ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải quyết.
Nay bút giả (HT. THÍCH
THIỀN-TÂM)
xin mạn phép nói lược qua cách phá trừ để góp ý, và các bạn đồng tu với sự hiểu
biết của mình, có thể suy diễn hiểu rộng thêm ra.
1.- Phá mối nghi túc
nghiệp nặng, công tu ít:
-Phật A Di Đà từng có lời thệ nguyện: "Chúng sanh nào chí tâm muốn về Cực Lạc, niệm danh hiệu Ngài cho
đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, Ngài thề không thành Phật."
Phật không khi nào nói dối, vậy hành giả phải tin nơi đức Từ
Tôn. Mười niệm là thời gian công phu tu hành rất ít mà còn được vãng sanh,
huống chi ta niệm nhiều hơn số đó.
Lại dù kẻ nghiệp nặng
đến đâu, như phạm trai phá giới, tạo đủ nghiệp ác, nếu chí tâm sám hối nương về
Phật A Di Đà, Ngài đều tiếp dẫn.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã chẳng nói kẻ tạo
tội nặng ngũ nghịch thập ác, khi lâm chung chí tâm niệm mười niệm đều được vãng
sanh đó ư?
Trong truyện Vãng Sanh,
như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung, trọn đời giết trâu bò, phá giới, làm
ác, khi lâm chung tướng địa ngục hiện,
sợ hãi niệm Phật, liền thấy Phật đến rước. Cho đến loài chim sáo, két niệm
Phật , còn được vãng sanh, huống chi ta chưa phải là tệ đến mức đó?
2.- Phá mối nghi bản
nguyện chưa trả, tham sân si chưa dứt:
- Bản nguyện của hành giả đại khái có hai: đạo và đời.
Về đạo, có người nguyện cất
chùa bố thí hay nguyện tụng số kinh chú bao nhiêu, làm chưa tròn đã đến giờ
chết. Phải nghĩ rằng: chỉ tín tâm niệm Phật, khi được vãng sanh sẽ làm vô lượng
vô biên công đức, còn bản nguyện chỉ là việc nhỏ, làm xong hay chưa không mấy
quan hệ, và chẳng có hại chi cả.
Về đời, hoặc có người vì
nhiệm vụ gia đình chưa tròn, như cha mẹ suy già không ai săn sóc, vợ con thơ
dại thiếu chỗ tựa nương, hoặc có kẻ thiếu nợ người chưa kịp trả, tâm nguyện
chưa vẹn nên lòng chẳng yên. Phải nghĩ rằng: lúc ta sắp chết, dù có lo hay
không cũng chẳng làm sao được. Chi bằng
chuyên tâm niệm Phật, khi đã được vãng sanh Tây Phương chứng đạo quả, thì tất
cả bản nguyện trái duyên đều có thể trả xong, tất cả kẻ oán người thân đều có
thể cứu độ.
Lại Kinh Na Tiên nói:
"Ví như hột cát nhẹ, bỏ xuống nước liền chìm. Trái lại tảng đá dù nặng to,
nếu được thuyền chở, có thể đem từ chỗ này sang chỗ khác.
Người niệm Phật cũng
thế, nghiệp tuy nhẹ nếu không được Phật cứu độ, tất bị luân hồi, tội chướng dù
nặng bao nhiêu, được Phật tiếp dẫn sẽ sanh về Cực Lạc."
Theo đoạn kinh đây, ta thấy môn Niệm Phật là pháp có thể đới nghiệp vãng sanh, vì nhờ tha lực. Tảng đá lớn ví cho sức
nghiệp nặng to, thuyền chở ví cho nguyện lực của Phật. Vậy người tu đừng nghĩ
rằng mình còn tham, sân, si, e không được vãng sanh. Thí dụ trên có thể phá
luôn điểm nghi về nghiệp nặng ở điều thứ nhứt.
3. Phá mối nghi niệm
Phật, e Phật không đến rước:
- Người niệm Phật tùy theo công đức mình, khi lâm chung thấy
Phật, hoặc Bồ Tát, hay Thánh chúng đến rước. Có khi không thấy chi, mà nhờ sức nguyện
của mình và Phật lực thầm nhiếp thọ, thần thức tự bay về Tây Phương.
Đây là bởi công hạnh của mình có cao thấp, sâu cạn. Chỉ cần yếu lúc ấy ta phải chí tâm niệm
Phật, đừng nghĩ chi sai khác. Nếu nghi ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại.
Tóm lại, khi lâm chung
dù thấy tướng tốt hay không cũng đừng quản đến, chỉ hết lòng niệm Phật cho đến
giây phút cuối cùng mà thôi.
* Phá chung bốn cửa ải:
1.- Nhân bịnh khổ hủy báng Phật
2.- Tham sống sát sanh cúng tế
3.- Cầu lành bịnh uống
ruợu, hoặc dùng thuốc có chất huyết tanh
4.- Vì ái luyến nên tâm niệm ràng buộc với gia
đình.
Người niệm Phật mà bị tai nạn bịnh khổ, đó là do nhờ công đức tu
hành, nên chuyển quả nặng thành quả nhẹ, chuyển hậu báo thành hiện báo, trả cho hết để được sanh về Tây Phương.
Nếu trở lại nghi ngờ hủy báng, là người kém tin hiểu, phụ ơn Phật, tự gây tội
chướng cho mình.
Trong sự tích Tịnh Độ có thuật chuyện ông Ngô Mao cùng rất
nhiều Phật tử khác, nhờ dồn nghiệp mà sớm được vãng sanh. Vậy
khi gặp cảnh này, người niệm Phật nên ý thức để hiểu rõ.
Lời bàn:
Người tu
NIỆM PHẬT hoặc TRÌ CHÚ thì mỗi ngày nghiệp chướng tiêu trừ, THIỆN CĂN TĂNG
TRƯỞNG, ĐỊNH-LỰC KIÊN CỐ, NÊN TẤT CẢ NGHIỆP
CHƯỚNG TRONG QUÁ KHỨ KHÔNG CÓ NHÂN
DUYÊN PHÁT SANH, CŨNG NHƯ TRIỆU THỐ THEO NGỘ ĐẠT QUỐC SƯ 10 ĐỜI để
đồi mạng MÀ KHÔNG LÀM GÌ ĐƯỢC như trong KINH THỦY SÁM đã nói, lại có thể chuyển TAI NẠN BỊNH KHỔ nặng thành
nhẹ, nhẹ thành không. Dù chưa trả hết nghiệp, vẫn được vãng-sanh. Cho nên,
trong KINH gọi là “ĐỚI NGHIỆP VÃNG-SANH”
LÀ LÝ DO NẦY VẬY.
Khi được vãng-sanh,
thì QÚY-VỊ có thể dùng ỨNG THÂN, hoặc HÓA THÂN ĐỂ ĐỘ TẤT CẢ TẤT KẼ OÁN NGƯỜI THÂN Ở KHẮP 10 PHƯƠNG ĐỀU
THÀNH PHẬT ĐẠO.
Lại thân này giả tạm, tùy theo tội nghiệp mà kiếp sống có vui
khổ lâu mau. Nếu giết sanh mạng để nuôi dưỡng sanh mạng, hoặc cúng tế, thì tội khổ càng thêm nặng, phải triệt để nương theo
Phật và tin chắc lý nhân quả.
Khi đau yếu chỉ cầu Phật, không nên cầu phù phép tà sư, hoặc
nghe lời kẻ chưa hiểu đạo, trở lại ăn mặn, uống rượu, hay dùng thuốc bằng chất
máu huyết tanh hôi. Thân này nhơ nhớp, được về cõi Phật sớm chừng nào hay chừng
ấy, như bỏ chiếc áo hôi rách mặc sắc phục đẹp thơm, đáng chi phải bận lòng?
Đến như mối hại về ái luyến khi lâm chung, thì như đoạn trên đã
nói. Phải nghĩ: trong gia đình từ cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, đều do đời
trước có nợ nần ân oán, nên mới tạm hội ngộ nhau. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi
người đi mỗi ngả. Nếu có lòng thương, tốt hơn ta nên gát bỏ tình trần cầu sanh
Tây Phương, để độ tất cả kẻ oan thân.
Khi cái chết sắp đến, dù có quyến luyến cũng không thể đem theo, không làm chi
được, bởi chính sắc thân của ta còn phải tan về cát bụi. Nếu ái luyến thì đã không được vãng sanh,
lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận.
Những điểm về Tam Nghi Tứ Quan trên đây, hành giả
phải suy nghiệm ghi nhớ kỹ, để dự bị trước cho tinh thần được yên ổn trong lúc
lâm chung.
Comments
Post a Comment