17. Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp
Hô Lô Hô Lô Ma Ra [41]
Kinh nói rằng: “Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến,
nên cầu nơi
Tay cầm chiếc Vòng-Ngọc.”
Thần-chú rằng: Hô Lô Hô Lô Ma Ra [41]
Chơn-ngôn rằng: Án-- bát na hàm vị ra dã, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Kinh thiên
động địa dịch quỉ thần
Hô phong
hoán vũ đàm tiếu trung
Nam cung nữ
kính đồng lễ bái
Tân chủ hòa
hợp đạo đại hưng.
( Trời đất rung động sáu cách, làm kinh sợ Quỷ thần, nên họ y theo lịnh mà làm.
Gọi gió, kêu mưa, như là chuyện vui đùa.
Nam Nữ cung kính, đồng lễ bái.
Tứ chúng hòa hợp, thì Phật-pháp được phát triển mạnh mẽ.)
Nếu Qúy-vị, trong khi tu hành mà gặp
phải những chúng sanh can cường, rất khó giáo hóa; cũng không thể
hòa hợp với họ để tu hành, vì họ luôn tìm cách làm chướng ngại
Qúy-vị; hoặc là con cái ngỗ nghịch không nghe theo lời khuyên dạy
thiện lành của Cha Mẹ, hay là bất cứ ý nguyện gì QÚY VỊ muốn “hòa hợp” mà không
thể thực hiện được, thì nên tu thủ nhãn này sẽ được như ý nguyện mong cầu.
Tại sao vậy? Vì “ĐÀ RA NI” là tổng tất cả pháp và trì
tất cả nghĩa.
Khi Qúy-vị tu thủ nhãn này, thì tự nhiên “THÀNH TỰU”:TÂM“TÙY HỶ”,TÂM “HỶ
XẢ”, TÂM Đại-Từ-Bi,TÂM Bình-Đẳng,TÂM Vô-Vi,TÂM Vô-Nhiễm-Trước,TÂM Không-Quán,TÂM Cung-Kính,TÂM Tỳ-Hạ,TÂM Vô-Tạp-Loạn,TÂM Vô-Kiến-Thủ,TÂM Vô-Thượng
Bồ-Đề… ĐỀU TỪ “ĐÀ RA NI” NẦY LƯU XUẤT RA CẢ.
Tâm “TÙY HỶ” là khi thấy có chúng sanh, dù có một việc thiện nhỏ nào như
vi-trần, cũng nên tán thán khen gợi, làm cho họ trưởng dưỡng thiện-căn, tiêu
trừ nghiệp-chướng. Như “Phổ-Hiền Bồ-tát”
trong KINH HOA NGHIÊM.
Tâm “HỶ XẢ” là khi thấy có chúng sanh, vong ân, bội nghĩa, tạo ngũ nghịch,
thập ác, tổn hại cho mình và người , thì cũng vui lòng bỏ qua, chỉ mong họ sớm
cải ác làm lành, Quy Y Tam Bảo, Phát Bồ-đề tâm… Như “Phật Thích-ca” là “Nhẫn Nhục Tiên
Nhơn” bị Vua Ca-Lợi cắt đứt tay chân, trong KINH KIM CANG.
Đây là tinh thần VÔ NGÃ, có đầy đủ “BI, TRÍ, DŨNG” thì làm cho Trời
Đất chấn động sáu cách:
1.
Phương Đông nổi phương Tây chìm,
2. Phương Tây nổi phương Đông chìm,
3. Phương Nam nổi phương Bắc chìm,
4. Phương Bắc nổi phương Nam chìm,
5. Chính Giữa nổi bốn bên chìm,
6. Bốn Bên Nổi chính giữa chìm.
( Kinh Ðại Thông Phương
Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật)
Đó gọi là sáu cách chấn động của các thế giới, làm kinh sợ Qủy
Thần, có khả năng ra lịnh cho Qủy Thần, cho Rồng phun mưa, làm gió là
chuyện rất thường như chuyện đang vui đùa vậy, đây gọi là “du hý
thần thông.”
Chúng-sanh “CAN CƯỜNG”, Nam Nữ ngỗ nghịch, nhìn thấy “DU HÝ THẦN THÔNG” của
người tu “NGỌC HOÀN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”
nầy thì trở lại “cung kính lễ bái tam bảo”, cải ác làm lành, cùng hướng tới
chơn-lý, vậy nên “Tứ chúng hòa hợp, thì Phật-pháp phát triển mạnh mẽ.” LÀ DO CÓ
NGƯỜI TU THỦ NHÃN NẦY ?
Tứ chúng hòa hợp là chỉ cho Tỷ-khưu, Tỷ-khưu-ni, Cư-sĩ Nam và Cư-sĩ Nữ trong
Phật-pháp. Nếu nói rộng ra thì là sự “HÒA
HỢP” trong Gia-đình, Xã-hội, Quốc-gia, Chúng-sanh, Pháp-giới…
Lời bàn:
Khi Quý-vị phát TÂM “Đại-Từ-Bi” thì
đó chính là trì “Chú Đại-Bi và 42 Thủ Nhãn.”
hoặc là trì “ Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp” nầy thì tự nhiên “THÀNH
TỰU” :
1) TÂM “TÙY HỶ”
2) TÂM “HỶ XẢ”
3) TÂM “Đại-Từ-Bi”
4) TÂM “Bình-Đẳng”
5) TÂM “Vô-Vi”
6) TÂM “Vô-Nhiễm-Trước”
7) TÂM “Không-Quán”
8) TÂM “Cung-Kính”
9) TÂM “Tỳ-Hạ”
10) TÂM “Vô-Tạp-Loạn”
11) TÂM “Vô-Kiến-Thủ”
12) TÂM “Vô-Thượng Bồ-Đề”…
ĐỀU TỪ “ĐÀ RA NI” NẦY LƯU XUẤT RA CẢ.
Tại sao vậy? Vì “ĐÀ RA NI” là tổng tất cả pháp và trì tất cả nghĩa. Nếu hiểu theo 1 nghĩa, 1 pháp nào đó cố định, thì không gọi là “Đà-Ra-Ni.”
41. Hô Lô Hô Lô Ma Ra
Hô Lô Hô Lô
Ma Ra . Hán dịch là “Tác pháp như ý”. Cũng
dịch là “Tác pháp mạc ly ngã”.
Đây là “Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp”. Trong bốn mươi hai ấn
pháp, khi hành giả hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này được gọi là “tác
pháp”. “Như ý” nghĩa là tùy theo TÂM nguyện đều được như ý. Khi hành giả tu tập
thành tựu ấn pháp này rồi, thì mọi việc đều được như TÂM nguyện nên gọi là “Như
ý”.
Còn “Tác pháp mạc ly ngã” có nghĩa
chính hành giả là người tu tập, không phải người nào khác. Nên khi hành giả tác
pháp này, thì ấn pháp không rời khỏi hành giả và hành giả không rời khỏi ấn
pháp. Pháp và ngã là một. Thế nên chẳng có pháp và cũng chẳng có ngã, pháp chấp
và ngã chấp đều không. Đó là ý nghĩa của “Tác pháp mạc ly ngã”.
Hành trì “Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp”. Có thể khiến tất cả chúng sanh đều vâng theo sự giáo hóa
của hành giả. Dạy họ tu pháp gì, họ đều tu theo pháp môn ấy không sai lệch.
(
Theo trong KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng “Khi Qúy vị trì tụng câu chú Hô Lô Hô Lô Ma Ra, thì
“VUA” của “BÁT BỘ QUỶ THẦN” sẽ “XUẤT HIỆN”,
giúp cho Qúy-vị sớm thành tựu “NGỌC HOÀN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, nên tất cả ước nguyện “THIỆN” đều
được thành tựu, còn ước nguyện “ÁC” thì không thành tựu.
BÁT BỘ QUỶ THẦN
VƯƠNG đã thành tựu “NGỌC HOÀN THỦ NHÃN ẤN PHÁP” , làm cho Qúy
vị “TĂNG TRƯỞNG THIỆN CĂN, TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG.”
Nếu “QÚY VỊ” Thường TRÌ “NGỌC HOÀN THỦ
NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúy vị là “HÓA
THÂN” của BÁT BỘ QỦY THẦN VƯƠNG, nghĩa
là cũng đạt được như Ngài vậy.
BÁT BỘ QUỶ THẦN
VƯƠNG
1) THIÊN
2) LONG
3) DẠ XOA
4) CÀN THÁT BÀ
5) A TU LA
6) CA LÂU LA
7) KHẨN NA LA
8) MA HẦU LA GIÀ
NHƠN PHI NHƠN
(Đây
cũng là danh xưng chung cho bát bộ quỷ thần)
THIÊN : Tiếng Phạm gọi là Đề-Bà, ta gọi là Trời. Các vị
này do tu thập thiện nên hưởng phước thiên-nhiên, sự ăn mặc tùy niệm hiện
thành.
LONG: Tiếng Phạm gọi là Na-Già ta gọi là Rồng. Loài này có
thần thông biến hóa, hoặc giữ cung điện trời, hoặc giữ địa luân, hoặc làm mưa gió.
DẠ XOA: Còn gọi là Dược Xoa, dịch là: Dõng
Kiện Bạo Ác hay Thiệp-Tật, một loài quỷ rất hung mãnh, bay đi mau lẹ, có phận
sự giữ các cửa khuyết cùng thành trì của trời.
CÀN THÁT BÀ: Dịch là Hương-ẩm,
nhạc thần của trời Đế-Thích, dùng mùi thơm làm thức ăn.
A TU LA: Dịch là Phi Thiên, một loài thần có phước trời mà đức
không bằng trời, có thần thông biến hóa song thân hình thô xấu, vì kiếp trước
hay sân hận.
CA LÂU LA: Dịch là Kim Súy Điểu, một loại chim thần, cánh có lông
sắc vàng tốt đẹp, hai cánh xòe ra cách nhau đến 3.360.000 dặm, có thần thông
biến hóa.
KHẨN NA LA: Dịch là
Nghi-Nhơn, một loại thần giống người nhưng không phải là người, vì trên đầu có
sừng, ca múa rất hay, thường tấu pháp nhạc và ca múa cho trời Đế-Thích nghe.
MA HẦU LA GIÀ: Dịch là
Đại-Mãng, hay Địa-Long tức là thần rắn.
NHƠN PHI NHƠN
(Đây
cũng là danh xưng chung cho bát bộ quỷ thần)
NHƠN PHI NHƠN: Loại quỉ thần
hình như người mà không phải là người, hoặc có sừng, có cánh, có móng vuốt.
Kệ tụng :
Quán âm thị hiện quỷ thần vương
Hàng phục chư ma thủ quy chương
Nhất thiết chúng sanh y giáo hối
Cường giả điều nhu nhược giả xương.
Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “NGỌC HOÀN
THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì VUA của BÁT
BỘ QỦY THẦN sẽ “XUẤT HIỆN”, đây là “BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM” hóa hiện ra, làm cho chúng
ma phải giữ trật tự theo quy cũ.
BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
còn dạy bảo khuyên răn tất cả AI tu “NGỌC HOÀN THỦ NHÃN ẤN PHÁP” phải lấy “NHU
HÒA NHẪN NHỊN”, ĐỂ ĐIỀU PHỤC NHỮNG KẼ “CAN CƯỜNG hay NÓNG GIẬN.”
Hòa Thượng THIỀN TÂM Dịch ra VIỆT VĂN
KỆ TỤNG
Hòa Thượng TUYÊN HÓA Kệ tụng
ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)
17. The Jade Ring Hand and Eye
The Sutra says: “For
male and female servants, use the Jade Ring hand.”
The Mantra: Hu lu hu lo mwo la.
The True Words: Nan. Bwo nwo syin wei la
ye. Sa wa he.
The verse:
Startle heaven, shake
the earth, employ the ghosts and spirits.
Call the wind, command
the rain, as if in joyful play.
Men are reverent, women
respectful, as they all make obeisance.
With guest and host in
harmony, the Way will flourish greatly.
41. HULU HULU
PRA
HULU HULU PRA means “doing Dharma as-you-will.” It also means “the doing of
Dharma is not separate from me.”
It is the
Jade ring Hand and Eye. Our cultivation of the Forty-two Hands
and Eyes is called “doing Dharma.” “As-you-will” means accordance with the way
we wish it to be in our hearts. When we have perfected the cultivation of Hand
and Eye, it is “according to our heart, as-we-will.”
“The doing of Dharma is
not separate from me” means that in cultivation it is oneself who must
cultivate. One must do it oneself. As I cultivate the Dharma, the Dharma is not
apart from me and I am not apart from it. The Dharma and I are one. Then, there
is neither Dharma nor me, and the two attachment of self and Dharma are
emptied. There is no attachment to self and no attachment to Dharma. That is
what is meant by “not separate from me.”
The Jade Ring Hand and
Eye, when cultivated, can cause all
beings to obey your instructions. They will cultivate whatever dharma you tell
them to cultivate, most obediently.
41. HULU HULU
PRA
Contemplating Sounds
appears as a king of ghosts and spirits.
Who forces the demons to
submit and follow the rules and regulations.
Each and every being
relies on the teaching and instructions.
The strong are pacified,
and the weak are able to flourish.
with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
MAHAKARUNA DHARANI
1. NAMO RATNATRAYÀYA
2. NAMO ARYA
3. AVALOKITÉSHAVARAYA
4. BODHISATTVAYA
5. MAHASATTVAYA
6. MAHA KARUNIKAYA
7. AUM!
8. SAVALAVATI
9. SUDHANATASYA
10. NAMASKRITTVA NIMAN ARYA
11. AVALOKITÉSHAVARA LANTABHA
12. NAMO NILAKANTHA
13. SRI MAHAPATASHAMI
14. SARVAD VATASHUBHAM
15. ASHIYUM
16. SARVASATTVA NAMO PASATTVA NAMO BHAGA
17. MABHATETU
18. TADYATHA
19. AUM! AVALOKA
20. LOKATE
21. KALATI
22. ISHIRI
23. MAHABODHISATTVA
24. SABHO SABHO
25. MARA MARA
26. MASHI MASHI RIDHAYU
27. GURU GURU GHAMAIN
28. DHURU DHURU BHASHIYATI
29. MAHA BHASHIYATI
30. DHARA DHARA
31. DHIRINI
32. SHVARAYA
33. JÁLA JÁLA
34. MÀMÀ BHÀMARA
35. MUDHILI
36. EHY EHY
37. SHINA SHINA
38. ALASHINBALASHÁRI
39. BASHÁ BHASNIN
40. BHARASHÁYA
41. HULU HULU PRA
42. HULU HULU SHRI
43. SARA SARA
44. SIRI SIRI
45. SURU SURU
46. BUDDHÀYA BUDDHÀYA
47. BODHÀYA BODHÀYA
48. MAITRIYÉ
49. NILAKANSTA
50. TRISA RANA
51. BHAYA MANE
52. SVAHA
53. SITAYA
54. SVAHA
55. MAHA SITAYA
56. SVAHA
57. SITAYAYE
58. SHVARAYA
59. SVAHA
60. NILAKANTHI
61. SVAHA
62. PRANILA
63. SVAHA
64. SHRISINHAMUKHAYA
65. SVAHA
66. SARVA MAHA ASTAYA
67. SVAHA
68. CHAKRA ASTAYA
69. SVAHA
70. PADMAKÉSHAYA
71. SVAHA
72. NILAKANTÉ PANTALAYA
73. SVAHA
74. MOPHOLISHAN KARAYA
75. SVAHA
76. NAMO RATNATRAYAYA
77. NAMO ARYA
78. AVALOKITÉ
79. SHAVARAYA
80. SVAHA
81. AUM! SIDDHYANTU
82. MANTRA
83. PATAYA
84. SVAHA
Comments
Post a Comment