Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ 16
Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]
Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa
nạn quan quân vời bắt, nên cầu nơi Tay cầm cây Phủ-Việt.”
Thần-chú rằng: Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]
Chơn-ngôn rằng: Án-- vị ra dã,
vị ra dã, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Nghiêm hình bức cung khấp quỉ thần
Hàm oan linh ngữ lý nan thân
Nhược dục thoát ly luy tiết khổ
Thả tu phủ việt thủ an thân.
(Bị tra tấn làm cho nhận tội, cho đến
Qủy Thần cũng kinh sợ than khóc.
Một Người bị gian trong tù, dù vô tội cũng rất khó minh oan.
Nếu muốn thoát khỏi cảnh khổ đau “TÙ NGỤC” oan ức,
Thì nên tu Tay-mắt cầm Cây Phủ-Việt, sẽ được an thân ra khỏi “NHÀ TÙ”.)
Đại-ý Kệ-tụng nói: “Nếu Qúy-vị vô tội
mà bị ở tù, chịu nhiều nỗi khổ mà không thể biện minh được; hoặc là muốn từ đây
về sau sẽ không bị gian cầm vô cớ, thì Qúy-vị nên tu Phủ-việt thủ nhãn
ấn pháp thì sẽ được như ý nguyện.
Còn như nếu muốn dùng thủ nhãn này, ra khỏi “NHÀ LỬA” trong
tam giới, còn gọi là “NHÀ TÙ TRONG BA CÕI”, thì vẫn được như ý nguyện.
Kinh-văn:
Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu
chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác,
tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh
về các cõi Phật, tôi thề không thành chánh giác.
Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành.
Như tại sao chúng ta phải ra khỏi nhà tù trong tam giới?
Vì ở trong nhà tù tam giới, qủa thật chúng ta đã chịu sự đau
khổ trong trăm, ngàn muôn ức A TĂNG KỲ KIẾP không biết khi
nào mới ra khỏi được? Thật là buồn thay !!!
Kệ tụng:
Ba cõi không an dường hỏa-trạch
Đâu miền chân-lạc khỏi tang thương?
Người vô thường,
Cảnh vô thường!
Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng
Quay về bể giác thanh lương.
Khởi lòng bi trí
Nguyện độ mười phương.
Ba tăng-kỳ kiếp tu muôn hạnh.
Bền lòng không thối chuyển
Cầu ngôi vị Pháp-Vương!
BA A-TĂNG-KỲ KIẾP = 3 X (1027 X 1.280 triệu
năm )
A-TĂNG-KỲ =1027 = 10 lũy thừa 27 = 1.000.000.000.000.000.000.000.000.000
KIẾP thì theo thông lệ, nếu trong kinh không nói rõ là
tiểu kiếp hay trung kiếp, thì là “ĐẠI KIẾP”.
1 tiểu kiếp = 16 triệu năm = 16.000.000
1 trung kiếp = 20 tiểu kiếp = 320 triệu năm = 320.000.000
1 đại kiếp = 4 trung kiếp = 1.280 triệu
năm = 1.280.000.000
Ba tăng kỳ kiếp tu muôn hạnh là chỉ cho Bồ-tát bất thối
chuyển, trải qua 55 ngôi vị
như sau:
1. Thập tín
2. Thập trụ
3. Thập hạnh
4. Thập hồi hướng
5. Tứ gia hạnh :
6. Thập địa
7. Đẳng giác
Nếu tính lúc đầu là CÀN HUỆ
ĐỊA và sau cùng là DIỆU GIÁC THÌ PHẢI LÀ 57 NGÔI VỊ MỚI THÀNH VỊ PHÁP VƯƠNG, TỨC LÀ THÀNH
PHẬT.
Cũng như, một vị TU ĐÀ HOÀN CHỈ
CÓ 7 ĐỜI SANH TỬ THÌ THÀNH A LA HÁN, KHÔNG CÓ ĐỜI SANH TỬ THỨ 8. VÌ SAO?
VÌ KHÔNG BỊ SẮC, THANH, HƯƠNG, VỊ, XÚC VÀ PHÁP CHI PHỐI NỮA, NÊN KHÔNG BỊ THỐI
CHUYỂN.
NGƯỜI TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM, THÌ KHÔNG TRẢI QUA “BA A TĂNG KỲ KIẾP” CŨNG CHỨNG
ĐƯỢC PHÁP THÂN, TỨC LÀ THÀNH PHẬT.
Diệu trạm tổng trì bất
động tôn,
Thủ Lăng Nghiêm Vương
thế hy hữu.
Tiêu ngã ức kiếp điên
đảo tưởng.
Bất lịch tăng kỳ hoạch
Pháp thân.
NGƯỜI NIỆM PHẬT, THÌ KHI VÃNG SANH SẼ ĐƯỢC THỌ MẠNG BẰNG VỚI PHẬT
A DI ĐÀ, CHỈ BỎ RA “3 A TĂNG KỲ KIẾP” TU MUÔN HẠNH, THÌ ĐƯỢC THÀNH
PHẬT. THẬT LÀ VUI THAY!!!
Kinh-văn:
“Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật đó và nhân-dân của Ngài sống lâu vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ kiếp, nên hiệu là A-Di-Ðà.”
NGƯỜI TU 42 THỦ NHÃN VÀ TRÌ CHÚ ĐẠI BI THÌ KHÔNG THEO THỨ
TỰ CHỨNG QỦA, CÓ THỂ TỪ SƠ ĐỊA LÊN BÁT ĐỊA, CŨNG CÓ LUÔN NGÀN TAY NGÀN MẮT.
Kinh-văn:
Lúc đó tôi (Quán Thế Âm Bồ Tát) mới ở ngôi sơ địa,
vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Bấy giờ
tôi rất vui mừng, liền phát thệ rằng: “Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi
ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân tôi
liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.”
( Theo Thủ Nhãn cuối cùng trong Bốn Mươi Hai
Thủ Nhãn có tên là Tổng Nhiếp Thiên Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp, hễ quý vị
tụng Thủ Nhãn này một biến, thì quý vị sẽ có thêm bốn mươi hai cánh tay. Tụng
mười biến thì được 420 tay; tụng một trăm biến thì được 4.200 tay. Nếu
quý vị tụng một ngàn biến thì sẽ có được 42.000 cánh tay, và cũng có luôn cả
42.000 con mắt.)
Cho nên, Ta thấy rằng không chỉ là
ngàn tay ngàn mắt, mà có thể có vô lượng tay mắt để cứu độ vô lượng chúng sanh
thoát khổ đau. Tuy phàm phu chúng ta không thấy, như người có ngũ nhãn lục
thông thì nhìn thấy, hoặc ma qủy có ngũ thông thì cũng nhìn thấy.
Lại như người “CHỨNG NGŨ NHÃN”, TUY
QÚY VỊ THẤY HỌ CHỈ CÓ 2 CON MẮT THƯỜNG THÔI; NHƯ PHẬT, BỒ TÁT VÀ THÁNH NHÂN,
LẠI THẤY HỌ CHỨNG ĐƯỢC NGŨ NHÃN. CŨNG ĐỒNG MỘT ĐẠO LÝ NHƯ TRÊN ĐÃ NÓI.
Tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực,
Duy chứng nãi tri nan khả trắc.
Kính lý khán hình kiến bất nan,
Thủy trung tróc nguyệt tranh niêm đắc.
Kinh sách tham khảo:
KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ LA NI, KINH PHÁP HOA, KINH LĂNG NGHIÊM, KINH KIM
CANG, KINH A DI ĐÀ, NIỆM PHẬT THẬP YẾU, NHỊ KHÓA HIỆP GIẢI, CHỨNG ĐẠO CA.
64. Tất Ra Tăng A Mục Khê Da
Tất Ra Tăng. Hán dịch là “thành tựu –
ái hộ”. Nghĩa là thường đem hết sức mình để bảo hộ che chở cho tất cả chúng
sanh.
A Mục Khê Da. Hán dịch là “bất không,
bất xả”.
Bất không có nghĩa là hữu. Nhưng đây
có nghĩa là diệu hữu.
Bất xả có nghĩa là “Bất xả nhất pháp”.
Không từ bỏ một việc gì, phải thông thạo tất cả các pháp. Nên có câu kệ:
“Chân như lý thượng bất lập nhất trần.
Phật sự môn trung bất xả nhất pháp”.
Nghĩa là:
“Trên phương diện bản thể, lý tánh tức chân như, thì không cần lập một thứ gì nữa cả, dù chỉ là hạt bụi.
Nhưng về mặt sự tướng, có nghĩa là việc hành trì, tu đạo thì không được bỏ qua
một pháp nào cả”.
A Mục Khê Da còn có nghĩa nữa là “ái
chúng, hòa hợp”. Nghĩa là thương yêu, hòa hợp, thường cứu giúp tất cả chúng
sanh.
Câu chú này còn có nghĩa khác là trong
tự tánh của mỗi chúng sanh đều có đủ tánh tự tại và tánh công đức thường vẫn
tròn đầy.
Đây là Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp. Khi hành trì ấn pháp này thành tựu, hành giả có thể tránh được nạn tù
tội, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ mọi lúc, hành giả đều không bị vướng phải các
chướng nạn về quan quyền nữa.
Quý vị sẽ hỏi: “Nếu tôi tu tập ấn pháp
này, liệu tôi có thể phạm pháp mà vẫn không bị bỏ tù hay sao?”
Không! Là Phật tử, quý vị không được
phạm pháp. Nếu quý vị đã thông hiểu Phật pháp và phát tâm tu học Phật pháp rồi,
thì làm gì có chuyện phạm pháp nữa? Còn nếu quý vị làm chuyện phạm pháp, tất
nhiên phải bị bắt và ở tù.
Tuy nhiên, đôi khi có những người vô
tội bị bắt ở tù. Đây là vì họ chưa bao giờ tu tập Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp này.
64. Tất Ra Tăng A Mục
Khê Da
BỔN THÂN NGÀI DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT
( Theo trong KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúy vị trì tụng câu chú Tất Ra Tăng A Mục Khê Da, thì Bồ-tát DƯỢC VƯƠNG sẽ “XUẤT HIỆN” Tay cầm cây “THUỐC TRỊ BỊNH”, đây là đấng “Y VƯƠNG” có khả năng trị lành tất cả thứ bịnh nan y của Qúy vị.
NGÀI DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT đã thành tựu “Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp”, hằng thương xót hộ trì chúng sanh, chẳng bỏ xót một ai cả.
Nếu “QÚY VỊ” Thường TRÌ Phủ-Việt Thủ Nhãn
Ấn Pháp, thì Qúy vị là “HÓA THÂN” của
Bồ-tát DƯỢC VƯƠNG, nghĩa là cũng
đạt được như Ngài vậy.)
Kệ tụng :
Hóa hiện Dược Vương đại bồ tát
Trừ “ÔN” diệt “DỊCH” cứu hằng sa
Phổ lịnh hữu tình ly tật khổ
Cam lộ biến sái hàm thức nha.
Còn theo “KỆ
TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn
Pháp, thì Bồ-tát DƯỢC VƯƠNG sẽ “XUẤT HIỆN”, đây là “BỒ TÁT
QUÁN THẾ ÂM” hóa hiện ra, dùng nước CAM LỘ RƯỚI KHẮP PHÁP GIỚI, để trừ diệt “BỊNH
ÔN DỊCH”, làm cho tất cả chúng sanh trong cõi nước như số các SÔNG HẰNG được
cứu độ khỏi nạn ÔN DỊCH.
ÔN là bệnh truyền nhiễm.
DỊCH là bệnh lây cho mọi người.
CHO NÊN, NẾU QÚI VỊ MUỐN DIỆT TRỪ BỊNH ÔN DỊCH THÌ PHẢI TRÌ TỤNG
Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ 16
Hóa hiện Dược Vương đại bồ tát
Trừ “ÔN” diệt “DỊCH” cứu hằng sa
Phổ lịnh hữu tình ly tật khổ
Cam lộ biến sái hàm thức nha.
NAM MÔ DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT (3 LẦN)
Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]
Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.
(108 LẦN)
Hòa Thượng THIỀN TÂM Dịch ra VIỆT VĂN
KỆ TỤNG
Hòa Thượng TUYÊN HÓA Kệ tụng
ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)
16. The Ax Hand and
Eye
The Sutra
says: “For avoiding difficulties with the law at all times and in all places,
use the Ax Hand.”
The Mantra: Syi lu seng e mu chywe ye.
The True Words: Nan. Wei la ye. Wei la
ye. Sa wa he.
The verse:
Tortured for a confession, even ghosts and spirits cry.
Taken prisoner and put in jail, one’s innocence is hard to
assert.
If one wishes to be free from the pain of incarceration,
One should cultivate the Ax Hand, and so remain at peace.
64. SHRISINHAMUKHAYA
SHRISIN means “accomplishment, loving protection”—loving
protection towards all living beings.
HAMUKHAYA means “not empty, not rejecting.” Not empty refers to
existence, but this existence is wonderful existence.
Not rejecting means that not one dharma is cast aside;
all dharma are studied. So it is said:
In the practice of the Buddha’s work, not a single
dharma is rejected;
In the substance of True Suchness, not a single dust
mote is established.
HAMUKHAYA also means “loving assembly,
harmoniously united.” This refers to cherishing all living beings and living in
harmony with them.
This is the Jeweled Ax Hand. If you
cultivate it, you won’t undergo imprisonment and in all places, at all times,
you will avoid legal problems.
The sentence also means that, within your own self
nature you comfortably accomplish all merit and virtue.
You may wonder, “If I cultivate this dharma, can I break
the law and avoid being put in jail?”
No! You must not break the law! If you cultivate this
dharma and understand the Buddhadharma, how could you break the law? Since you
haven’t broken the law, of course you won’t be arrested or imprisoned.
Sometimes, however, innocent people are arrested and
jailed. This is because they have never cultivated the Jeweled Ax Hand and Eye.
64. SHRISINHAMUKHAYA
Transforming and
appearing as the Great Bodhisattva Medicine King,
He
expels disease and eradicates plagues, saving millions.
Enabling beings to
escape pestilence and leave suffering,
His sweet dew is
sprinkled on the sprouts of those with feeling and awareness.
with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
MAHAKARUNA DHARANI
1. NAMO RATNATRAYÀYA
2. NAMO ARYA
3. AVALOKITÉSHAVARAYA
4. BODHISATTVAYA
5. MAHASATTVAYA
6. MAHA KARUNIKAYA
7. AUM!
8. SAVALAVATI
9. SUDHANATASYA
10. NAMASKRITTVA NIMAN ARYA
11. AVALOKITÉSHAVARA LANTABHA
12. NAMO NILAKANTHA
13. SRI MAHAPATASHAMI
14. SARVAD VATASHUBHAM
15. ASHIYUM
16. SARVASATTVA NAMO PASATTVA NAMO BHAGA
17. MABHATETU
18. TADYATHA
19. AUM! AVALOKA
20. LOKATE
21. KALATI
22. ISHIRI
23. MAHABODHISATTVA
24. SABHO SABHO
25. MARA MARA
26. MASHI MASHI RIDHAYU
27. GURU GURU GHAMAIN
28. DHURU DHURU BHASHIYATI
29. MAHA BHASHIYATI
30. DHARA DHARA
31. DHIRINI
32. SHVARAYA
33. JÁLA JÁLA
34. MÀMÀ BHÀMARA
35. MUDHILI
36. EHY EHY
37. SHINA SHINA
38. ALASHINBALASHÁRI
39. BASHÁ BHASNIN
40. BHARASHÁYA
41. HULU HULU PRA
42. HULU HULU SHRI
43. SARA SARA
44. SIRI SIRI
45. SURU SURU
46. BUDDHÀYA BUDDHÀYA
47. BODHÀYA BODHÀYA
48. MAITRIYÉ
49. NILAKANSTA
50. TRISA RANA
51. BHAYA MANE
52. SVAHA
53. SITAYA
54. SVAHA
55. MAHA SITAYA
56. SVAHA
57. SITAYAYE
58. SHVARAYA
59. SVAHA
60. NILAKANTHI
61. SVAHA
62. PRANILA
63. SVAHA
64. SHRISINHAMUKHAYA
65. SVAHA
66. SARVA MAHA ASTAYA
67. SVAHA
68. CHAKRA ASTAYA
69. SVAHA
70. PADMAKÉSHAYA
71. SVAHA
72. NILAKANTÉ PANTALAYA
73. SVAHA
74. MOPHOLISHAN KARAYA
75. SVAHA
76. NAMO RATNATRAYAYA
77. NAMO ARYA
78. AVALOKITÉ
79. SHAVARAYA
80. SVAHA
81. AUM! SIDDHYANTU
82. MANTRA
83. PATAYA
84. SVAHA
Comments
Post a Comment